Ngày 4/11, tại Đồng Nai đã diễn ra hội thảo “Liên kết công ty với các hộ tại làng nghề gỗ, giảm rủi ro và thúc đẩy phát triển bền vững thị trường nội địa trong tương lai”, do Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam, Hội Gỗ và thủ công mỹ nghệ tỉnh Đồng Nai tổ chức.

Công ty gỗ và làng nghề liên kết để giảm rủi ro, thúc đẩy thị trường
TS. Tô Xuân Phúc cho rằng cần liên kết giữa doanh nghiệp và làng nghề trong chuỗi cung ứng gỗ. Ảnh: NNK

Chưa có sự kết nối giữa các làng nghề và các công ty trong ngành gỗ

Phát biểu tại hội thảo, ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam cho biết, văn hóa tiêu dùng về đồ gỗ nội thất đang có sự thay đổi mạnh mẽ theo hướng cách tân, chứa nhiều giải pháp về công nghệ, sáng tạo. Đây là hướng đi vào sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng, nhằm tạo ra sản phẩm hàm lượng công nghệ cao.

Đáng chú ý, các tập đoàn chế biến gỗ mạnh ở Trung Quốc đang mở chương trình rất lớn tại Việt Nam. Theo đó, mở các siêu thị và trưng bày các sản phẩm của Trung Quốc tại Việt Nam. Trong đó, các nhà máy sản xuất của Trung Quốc sẽ sản xuất tại Việt Nam và bán tại thị trường Việt Nam, chứ không phải nhập khẩu sản phẩm từ Trung Quốc bán tại thị trường Việt Nam để không phải chịu thuế 40% nhập khẩu.

Các sản phẩm này phù hợp với giới trẻ và phong trào chung của Việt Nam đó là sử dụng các nguyên liệu gỗ rừng trồng thay thế cho nguồn nguyên liệu từ gỗ rừng tự nhiên, gỗ cứng. Việc này cũng đưa ra những cảnh báo đối với các doanh nghiệp, làng nghề gỗ Việt Nam và cần sự liên kết giữa doanh nghiệp và các làng nghề.

Tuy nhiên, ông Đỗ Xuân Lập nêu thực trạng, tại Việt Nam có khoảng trên 300 làng nghề với hàng chục, thậm chí hàng trăm nghìn hộ gia đình tham gia khâu sản xuất và thương mại. Nhiều hộ tại các làng nghề này vẫn hoạt động theo hình thức tự phát, chưa chuyên nghiệp. Đến nay hầu như chưa có sự kết nối giữa các làng nghề và các công ty trong ngành gỗ. Nói cách khác, các làng nghề tồn tại tương đối biệt lập, chưa trở thành một bộ phận của chuỗi cung ứng.

Mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 4 - 5 triệu m3 gỗ nguyên liệu, trong đó 30 - 40% là gỗ rủi ro. Việt Nam nhập khẩu gỗ rủi ro đã và đang có những tác động tiêu cực tới ngành gỗ Việt Nam, đặc biệt là ở khâu xuất khẩu. Vụ điều tra 301 của Cơ quan Đại diện thương mại Mỹ về ngành gỗ Việt Nam cuối năm 2020 là một ví dụ điển hình về tác động tiêu cực này.

Ông Đỗ Xuân Lập nhấn mạnh, Việt Nam cam kết mạnh mẽ để loại bỏ gỗ bất hợp pháp ra khỏi chuỗi cung ứng, cả trong xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Giảm lượng gỗ rủi ro nhập khẩu không những giúp Chính phủ thực hiện cam kết này, mà còn giúp giảm rủi ro cho cả ngành gỗ, bao gồm cả khâu xuất khẩu. Giảm lượng gỗ rủi ro nhập khẩu đòi hỏi các hộ tại các làng nghề chuyển sang sử dụng các loại ít rủi ro, bao gồm gỗ rừng trồng trong nước hay các loại ván. Tuy nhiên để làm được điều này không dễ dàng.

“Chuyển đổi gỗ nguyên liệu từ gỗ rủi ro sang các loại gỗ khác cần sự hội tụ của nhiều yếu tố, trong đó bao gồm thay đổi thói quen sử dụng gỗ tự nhiên, đặc biệt là các loại gỗ quý hiện nay, các cơ chế chính sách hỗ trợ các hộ làng nghề trong việc cung gỗ nguyên liệu thay thế, tìm kiếm và mở rộng thị trường đầu ra cho sản phẩm sử dụng các loại gỗ thay thế” - ông Lập nói.

Cũng theo ông Lập, gần đây đã có sự hình thành một số mô hình liên kết giữa công ty trong ngành gỗ và hộ gia đình tại một số làng nghề, nhằm mục tiêu chuyển đổi nguyên liệu đầu vào tại các làng nghề này. Mô hình liên kết của của Công ty TAVICO với một số làng nghề phía Bắc là một điểm sáng về câu chuyện này.

Liên kết công ty với các hộ tại làng nghề gỗ: Giảm rủi ro và thúc đẩy thị trường
Các sản phẩm gỗ có nguồn gốc gỗ hợp pháp trưng bày tại Showrom TAVICO Đồng Nai. Ảnh: NNK

Liên kết, hợp tác dựa trên nguyên tắc công bằng, giảm rủi ro

Chia sẻ về mô hình liên kết nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi này, ông Đỗ Quang Hà - Chủ tịch HĐQT Công ty TAVICO, cho biết: "Trước đây, chúng tôi đã từng nhập khẩu gỗ tần bì Nga và phải để ngoài cảng 6 tháng trời không ai hỏi mua. Sau đó, tôi mạnh dạn đưa thử số gỗ này vào làng nghề Hữu Bằng để chế biến và thật kỳ diệu, thị trường chấp nhận và thay thế dần gỗ xoan đào, mở ra xu hướng mới cho gỗ tần bì Nga tại thị trường Việt" - ông Hà nói.

Ở góc độ làng nghề, ông Vũ Quốc Vương - Chủ tịch Hội Gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh), cho hay với tay nghề cao của lao động, làng nghề Đồng Kỵ hoàn toàn có thể sản xuất các đơn hàng, sản phẩm mà phía các doanh nghiệp yêu cầu. Về vấn đề liên kết giữa doanh nghiệp và làng nghề, "chúng tôi cần sự cam kết của doanh nghiệp trong việc đảm bảo nguồn ra cho sản phẩm, chứ không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào" - ông Vương nói.

Để các làng nghề liên kết, TS. Tô Xuân Phúc - chuyên gia phân tích của Tổ chức Forest Trends, cho rằng cộng đồng doanh nghiệp ngành gỗ nên coi việc hỗ trợ các hộ làng nghề là thực hiện trách nhiệm cộng đồng và tìm kiếm cơ hội hợp tác cụ thể với các hộ nghề. Bên cạnh đó, hợp tác dựa trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, dựa trên các thế mạnh của mỗi bên. Nên coi hợp phần thị trường nội địa là hợp phần không thể tách rời của ngành gỗ, trực tiếp tác động tới hợp phần xuất khẩu.

Cùng với đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm nhiều hơn tới các hộ làng nghề. Chính phủ đã cam kết kiểm soát chặt chẽ thị trường nội địa; có cơ chế chính sách riêng nhằm hỗ trợ các làng nghề gỗ; cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ hình thành liên kết giữa công ty và các hộ làng nghề. Đồng thời, truyền thông làm thay đổi thói quen người tiêu dùng trong việc sử dụng gỗ quý...

Ngoài ra, các hộ làng nghề cần cập nhật thông tin về thị trường, chính sách thông qua kênh của hiệp hội, hội làng nghề; thực hiện chuyển đổi; tranh thủ cơ hội hợp tác với các công ty; hình thành tổ nhóm có nhiều tương đồng, kết nối với doanh nghiệp nhằm giảm chi phí giao dịch trong liên kết...

Theo Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam, ngành gỗ còn có một hợp phần rất quan trọng đó là thị trường nội địa. Hợp phần này đến nay vẫn được biết đến nhiều. Với dân số gần 100 triệu dân như hiện nay và tầng lớp trung lưu lớn, thị trường nội địa có quy mô không hề nhỏ. Tuy nhiên, thị trường nội địa chưa nhận được mối quan tâm xứng đáng cả về mặt cơ chế chính sách và của cộng đồng doanh nghiệp trong ngành.