Thể chế hóa chủ trương đổi mới, hoàn thiện pháp luật của Đảng và Nhà nước
Bộ Tài chính cho biết, Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII và Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị đều yêu cầu rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật chưa phù hợp; cắt giảm thủ tục hành chính; phòng ngừa lợi ích nhóm; khơi thông nguồn lực cho đầu tư, kinh doanh. Chỉ thị số 27-CT/TW tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu xử lý dứt điểm các tồn tại tại dự án BOT, BT gây lãng phí.
Hơn nữa, thời gian qua, nhiều đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đến PPP đã được sửa đổi, như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật PPP, Luật Đấu thầu (Luật số 57/2024/QH15), Luật Ngân sách nhà nước số 89/2025/QH15, Luật Đầu tư công số 58/2024/QH15, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 90/2025/QH15… Các quy định mới về hợp đồng BT thanh toán bằng ngân sách, nguồn vốn thực hiện cơ chế chia sẻ tăng/giảm doanh thu hay cơ chế thanh toán khi chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đều đòi hỏi nghị định mới để bảo đảm thống nhất.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Ngoài ra, từ thực tế triển khai, quá trình tổng kết cho thấy Nghị định 28/2021/NĐ-CP quy định cơ chế quản lý tài chính dự án PPP còn nhiều bất cập như: thiếu chỉ tiêu phân tích tính khả thi phương án tài chính theo từng ngành; vướng mắc trong cơ chế chia sẻ tăng, giảm doanh thu; thiếu hướng dẫn quyết toán đối với phụ lục hợp đồng ký sau thời điểm Luật PPP có hiệu lực. Những hạn chế này đã cản trở hiệu quả triển khai dự án PPP tại nhiều địa phương.
Do đó, Bộ Tài chính cho biết, việc ban hành Nghị định 312/2025/NĐ-CP đã bám sát các định hướng lớn của Đảng về hoàn thiện thể chế, đặc biệt theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, yêu cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, lấy lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
Nghị định 312/2025/NĐ-CP đã thể chế hóa đầy đủ các quan điểm này, tạo hành lang pháp lý minh bạch và hiện đại cho mô hình PPP và BT thanh toán bằng ngân sách. Đáp ứng yêu cầu đồng bộ với hệ thống luật mới và tháo gỡ vướng mắc thực tiễn.
Quy định rõ nguyên tắc và nội dung phương án tài chính dự án PPP
Một trong những nội dung quan trọng của Nghị định là quy định chi tiết về phương án tài chính của dự án PPP. Theo đó, phương án phải phản ánh đầy đủ toàn bộ chi phí, doanh thu và nguồn vốn trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và vận hành dự án; hạch toán độc lập với hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp.
Nghị định khẳng định phần vốn nhà nước theo Luật PPP bao gồm cả thuế giá trị gia tăng không tính vào phương án thu hồi vốn và lợi nhuận của nhà đầu tư. Doanh thu tính toán phải là toàn bộ doanh thu từ sản phẩm, dịch vụ công của dự án.
Phương án tài chính phải tính toán các chỉ tiêu như NPV, IRR, B/C, phân tích độ nhạy và xác định thời gian hoàn vốn phù hợp từng loại hợp đồng PPP.
Nội dung phương án tài chính gồm tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn (vốn đầu tư công, vốn chủ sở hữu, vốn huy động), chi phí vận hành, phương án thu hồi vốn và lợi nhuận theo từng loại hợp đồng (thu phí; BTL; BLT; hoặc BT thanh toán bằng ngân sách).
Nghị định cũng quy định chi tiết về nguồn kinh phí chuẩn bị đầu tư, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền, cũng như quy trình thẩm định và phê duyệt chi phí cho cả dự án có hoặc không có cấu phần xây dựng.
Sau khi ký hợp đồng, chi phí triển khai dự án phải được bố trí theo đúng quy định pháp luật về ngân sách nhà nước, bảo đảm rõ ràng về căn cứ, định mức và quy trình phân bổ.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải quyết toán chi phí chuẩn bị đầu tư theo từng nguồn vốn; trong khi đó, nhà đầu tư được lựa chọn phải hoàn trả chi phí trong vòng 60 ngày kể từ khi hợp đồng có hiệu lực.
Minh bạch hóa quy trình quyết toán vốn đầu tư công trình dự án PPP
Nghị định 312/2025/NĐ-CP quy định phần vốn đầu tư công trong dự án PPP được quyết toán tương tự dự án đầu tư công. Các chi phí huy động vốn, chi phí dự phòng, chi phí tiết kiệm phải tuân thủ hợp đồng dự án và quy định pháp luật.
Việc quyết toán phải thông qua kiểm toán độc lập hoặc Kiểm toán Nhà nước tùy loại hợp đồng (BOT, BTL, BOO, BLT, O&M…). Thời gian lập hồ sơ quyết toán được quy định cụ thể từ 4–9 tháng, tùy theo quy mô công trình.
Giá trị quyết toán là căn cứ để điều chỉnh thời hạn hợp đồng theo Luật số 90/2025/QH15, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của cả hai bên.
Nghị định 312/2025/NĐ-CP được đánh giá là bước hoàn thiện quan trọng trong khung pháp lý về PPP và BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước. Nghị định giúp nâng cao tính minh bạch, khả thi của phương án tài chính; tăng cường quản lý vốn nhà nước; chuẩn hóa quy trình thanh toán và quyết toán; đồng thời cắt giảm thủ tục hành chính và ngăn ngừa rủi ro tiêu cực.
Bộ Tài chính cũng cho biết, việc ban hành Nghị định là cơ sở để khơi thông nguồn lực đầu tư hạ tầng, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao niềm tin của nhà đầu tư vào các dự án PPP trong giai đoạn mới./.
| Nghị định 312/2025/NĐ-CP thay thế hoàn toàn Nghị định số 28/2021/NĐ-CP. Đối với dự án BT đang thực hiện theo quy định của Nghị định số 11/2024/NĐ-CP ngày 2/2/2024 của Chính phủ quy định về lãi vay, lợi nhuận hợp lý, phương thức thanh toán, quyết toán dự án đầu tư theo hợp đồng BT; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Nghị định số 64/2025/NĐ-CP ngày 5/3/2025 của Chính phủ quy định về lãi vay, lợi nhuận hợp lý, phương thức thanh toán, quyết toán dự án đầu tư theo hợp đồng BT tỉnh Nghệ An: Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố quyết định việc tiếp tục thực hiện quy định về lãi vay, lợi nhuận hợp lý, phương thức thanh toán, quyết toán dự án áp dụng loại hợp đồng BT theo các Nghị định (nêu trên) hoặc áp dụng quy định của Nghị định này. Trường hợp quyết định áp dụng quy định của Nghị định này, việc áp dụng quy định chuyển tiếp như sau: Dự án BT đã được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án nhưng đến ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành chưa tổ chức lựa chọn nhà đầu tư được rà soát, điều chỉnh quy định về lãi vay sau thời gian xây dựng, lợi nhuận hợp lý, phương thức thanh toán, quyết toán công trình dự án BT hoàn thành khi điều chỉnh chủ trương đầu tư hoặc điều chỉnh dự án để áp dụng quy định của Nghị định này. |


