![]() |
Nghị quyết 68 xác định doanh nghiệp tư nhân là một lực lượng chủ chốt để hiện thực hóa các nhiệm vụ, mục tiêu tại Nghị quyết 57. Ảnh minh họa |
Thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo
Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) Hồ Đức Thắng khẳng định sự gắn kết, song hành của các Nghị quyết 57 và 68, trong đó Nghị quyết 57 chỉ ra việc cần làm trong kỷ nguyên mới là tập trung phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia để kinh tế Việt Nam khởi sắc, tăng trưởng 2 con số; Nghị quyết 68 xác định doanh nghiệp tư nhân là một lực lượng chủ chốt để hiện thực hóa các nhiệm vụ, mục tiêu tại Nghị quyết 57.
Với những mục tiêu trên, kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình tăng trưởng dựa trên tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực giá rẻ sang mô hình mới với động lực tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Sự chuyển đổi này phù hợp với xu thế phát triển của thế giới cũng như thực tế tại Việt Nam trong những năm qua. Cộng đồng doanh nghiệp tư nhân, trong đó chủ lực là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng trong duy trì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; là lực lượng năng động, có khả năng thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo.
TS. Đinh Việt Hòa – Chủ tịch Hiệp hội Khởi nghiệp quốc gia cho rằng, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 như dành cho khởi nghiệp quốc gia, đặt ra hai vấn đề đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử, Nghị quyết 68 đưa doanh nghiệp tư nhân đứng trên vai trò dẫn dắt kinh tế, trở thành chiến sĩ trên mặt trận kinh tế. Thứ hai, một trong những yếu tố quyết định cho sự tồn tại của doanh nghiệp là vấn đề liên quan đến cấu trúc sản phẩm. Cấu trúc sản phẩm đòi hỏi hàm lượng chất xám tăng lên, chúng ta không còn thời kỳ lấy tư duy cạnh tranh là nhân công giá rẻ. Nhân công giá rẻ thì không thể tạo ra trong sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, sản phẩm để chúng ta có thể đưa ra cạnh tranh toàn cầu cần có hàm lượng chất xám cao.
Cũng theo TS. Hòa, thời gian qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao liên quan đến phát triển doanh nghiệp, tuy nhiên, xét về tiềm lực vẫn còn rất lớn, dân số 100 triệu dân nhưng số lượng doanh nghiệp mới có hơn 940 nghìn doanh nghiệp. Nghị quyết 68 sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tạo lên cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhưng cũng đặt ra vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải thay đổi mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động hướng tới phát triển bền vững.
Chuyển hóa từ định hướng thành kết quả
Từ góc độ doanh nghiệp, các đơn vị công nghệ nhận định, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 mở ra một "khung phát triển vàng" cho quá trình làm chủ công nghệ. Phó Chủ tịch Công ty cổ phần MISA Đinh Thị Thúy cho biết, đây là cơ hội lớn, vì các chính sách không chỉ thúc đẩy chuyển đổi số mà còn tăng khả năng cạnh tranh dựa trên năng lực thực.
Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đặt ra mục tiêu đến năm 2030, phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nghị quyết số 68 cũng đưa ra tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế... |
Tuy nhiên, để chuyển hóa định hướng thành kết quả, theo các chuyên gia, cần hành động cụ thể từ cả hai phía là Nhà nước và doanh nghiệp. Điều quan trọng hiện nay là gỡ bỏ các nút thắt chính sách, đặc biệt là về sở hữu trí tuệ, bản quyền công nghệ - nền tảng để doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào công nghệ lõi, sản phẩm chiến lược.
Theo bà Đinh Thị Thúy, để định hướng, chủ trương nhà nước được cụ thể hóa vào thực tiễn, cần sự tham gia đồng bộ của cả cơ quan nhà nước cũng như chủ thể doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị được thụ hưởng các chính sách.
“Chúng tôi cho rằng cần có sự tích cực từ 2 phía, cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp. Có như vậy, từ định hướng mới thành hành động và được triển khai một cách thực tiễn, mang lại hiệu quả. Doanh nghiệp là người thụ hưởng nhưng cũng là người kiến tạo, nếu chỉ chờ chính sách thì sẽ bị động. Ngược lại, cần phản ánh thực tế, đề xuất giải pháp để Nhà nước kịp thời hoàn thiện thể chế”, bà Thuy chia sẻ.
Đại diện MISA đưa ra đề xuất, trong việc chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp nhỏ, không nên chọn một phần mềm dùng chung duy nhất, mà cần đưa ra tiêu chuẩn rõ ràng, để hàng trăm doanh nghiệp phần mềm có thể tham gia, cạnh tranh công bằng. Cách làm này không chỉ hiệu quả hơn mà còn khuyến khích sáng tạo, đúng tinh thần nghị quyết.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng cho rằng, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 sẽ chỉ tạo ra chuyển biến thực sự nếu được triển khai đồng bộ, liên tục đánh giá, cập nhật, điều chỉnh theo phản hồi từ thị trường. Điều này đòi hỏi không chỉ sự phối hợp giữa các bộ, ngành, mà còn cả sự chủ động tham gia của khu vực tư nhân. Tầm nhìn chung của cả hai nghị quyết không chỉ chuyển đổi công nghệ, mà phải chuyển đổi tư duy quản lý, tư duy phát triển. Phát triển chuyển đổi số không chỉ là số hóa quy trình, mà còn là thay đổi cấu trúc thị trường, định hình lại vị trí của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế tri thức.
Việt Nam đang có cơ hội lớn để bứt phá nếu biết kết nối sức mạnh của thể chế hiện đại với năng lực linh hoạt của khu vực doanh nghiệp. Khi được triển khai thực chất, động lực kép này không chỉ giúp Việt Nam bắt kịp mà còn có thể dẫn đầu làn sóng công nghệ và kinh tế số trong khu vực.
AI đóng vai trò quan trọng nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế Theo Cục Chuyển đổi số quốc gia, (Bộ Khoa học và Công nghệ), hiện cứ 6 tháng năng lực của AI lại tăng gấp đôi. Doanh nghiệp toàn cầu đã nhanh chóng nhảy lên “con tàu” AI. Năm 2023, có 55% doanh nghiệp sử dụng AI nhưng tới năm 2024, con số này đã là 75%, tức là có 3 trên 4 doanh nghiệp sử dụng AI trong hoạt động của mình. Không chỉ doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan nhà nước cũng không đứng ngoài. Với khối lượng công việc tăng rất nhiều, việc sử dụng AI góp phần tăng hiệu quả, giảm áp lực lớn với các cán bộ, công chức. Nhận thức được tầm quan trọng của AI trong việc nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Chiến lược quốc gia về AI đến năm 2030 kèm Chương trình hành động chuyển đổi quốc gia về AI. Không chỉ là văn bản pháp lý mà đây là lộ trình hành động cụ thể để Việt Nam không chỉ theo kịp mà còn dẫn đầu trong lĩnh vực AI. Muốn phát triển AI, trước hết phải có nền tảng vững chắc. Có 2 nội dung cơ bản cần có với AI là sức mạnh tính toán và dữ liệu chất lượng. Hiện nay, hạ tầng tính toán của doanh nghiệp hạn chế nên Nhà nước sẽ đầu tư mạnh vào hạ tầng tính toán và nâng cao năng lực tính toán. Về dữ liệu, trong thời gian tới Trung tâm dữ liệu quốc gia sẽ được đẩy nhanh tiến độ triển khai cùng với việc hoàn thiện hệ thống thể chế về dữ liệu; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Về tài chính, Chiến lược chủ trương đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ tài chính cho cộng đồng nghiên cứu và doanh nghiệp. Bên cạnh các quỹ nhà nước phục vụ nghiên cứu phát triển, dự kiến thiết lập các KPI để ưu tiên đầu tư cho AI như 5% nguồn lực từ Quỹ phát triển khoa học quốc gia, 30% từ Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao. Đặc biệt, Chiến lược dự kiến dành khoảng 20% Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia để hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng AI. |