Mở rộng đối tượng tham gia
Nhằm đáp ứng và đạt mục tiêu Nghị quyết số 28-NQ/TW đề ra là đến năm 2030 có khoảng 45% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, Luật Việc làm (sửa đổi) đã mở rộng đối tượng tham gia.
![]() |
Luật Việc làm (sửa đổi) mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh minh họa |
Cụ thể đối với nhóm lao động sau: Lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng; Lao động làm việc theo hợp đồng lao động không trọn thời gian mà có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thấp nhất theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 (bằng mức lương tham chiếu hiện nay là mức lương cơ sở).
Luật Việc làm (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9 ngày 16/6/2025. Luật gồm 8 chương, 55 điều có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026. |
Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao phủ đối với cả các trường hợp thoả thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên; và một số đối tượng có hưởng lương khác.
Ngoài ra, Luật Việc làm (sửa đổi) còn giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với các đối tượng khác ngoài các đối tượng quy định tại Luật này mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ.
Quy định rõ về trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp của chủ lao động
Điểm mới nữa của Luật Việc làm (sửa đổi) là quy định về đóng bảo hiểm thất nghiệp rõ ràng, cụ thể, đảm bảo tính linh hoạt của chính sách cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khuyến khích người sử dụng lao động tạo việc làm cho người khuyết tật.
Luật lần này quy định rõ người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp. Việc xử lý hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024.
Đồng thời, bổ sung quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong trường hợp không đóng đủ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc thì phải trả khoản tiền tương ứng với các chế độ bảo hiểm thất nghiệp mà người lao động được hưởng theo quy định của pháp luật.
Luật cũng quy định mức đóng bảo hiểm thất nghiệp tối đa là 1% và giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết thay vì quy định cứng mức đóng bằng 1% như hiện hành để đảm bảo tính linh hoạt của chính sách và tăng sự chủ động điều hành của Chính phủ, đặc biệt là trong các trường hợp thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế và kết dư Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Ngoài ra, Luật Việc làm (sửa đổi) còn bổ sung quy định giảm tiền đóng bảo bảo hiểm thất nghiệp thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động phải đóng cho người lao động là người khuyết tật trong thời gian không quá 12 tháng khi tuyển mới và sử dụng người lao động là người khuyết tật.
Tăng quyền lợi thụ hưởng cho người tham gia
Một trong những điểm mới tại Luật Việc làm (sửa đổi) là các chế độ bảo hiểm thất nghiệp được sửa đổi theo hướng mở rộng quyền lợi của người tham gia.
![]() |
Mở rộng hỗ trợ người lao động tham gia đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề. Ảnh minh họa |
Theo đó, các chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm 4 chế độ như Luật Việc làm hiện hành, trong đó chế độ “Hỗ trợ học nghề” được mở rộng thành chế độ “Hỗ trợ người lao động tham gia đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề”.
Ngoài ra, Luật còn bổ sung quy định Chính phủ căn cứ tình hình thực tế và kết dư Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp để quy định việc giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ bằng tiền hoặc hỗ trợ khác trong trường hợp khủng hoảng, suy thoái kinh tế, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.
Đối với chế độ “Hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề”, Luật sửa đổi mở rộng thêm quyền lợi cho người lao động không chỉ được hỗ trợ đào tạo nghề, kỹ năng mà còn được hỗ trợ tiền ăn cho người lao động trong thời gian tham gia đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề giúp người thất nghiệp giảm bớt khó khăn khi tham gia học nghề. Từ đó, sẽ góp phần tăng tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo và tăng cơ hội tìm kiếm việc làm mới phù hợp, tốt hơn.
Tại Luật Việc làm (sửa đổi) bổ sung các quy định về quản lý, giám sát chi tổ chức và hoạt động bảo hiểm thất nghiệp, quản lý quỹ và hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm thất nghiệp; Bổ sung quy định cụ thể về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp của cơ quan Bảo hiểm xã hội, tổ chức dịch vụ việc làm công để làm căn cứ pháp lý trong tổ chức thực hiện. |
Về chế độ trợ cấp thất nghiệp, Luật sửa đổi bổ sung quy định trường hợp người lao động nghỉ việc khi đủ điều kiện hưởng lương hưu thì không được hưởng trợ cấp thất nghiệp; giảm thời gian chờ đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp từ 15 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc. Do đó, thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động được sớm hơn 5 ngày làm việc so với hiện hành (từ ngày làm việc thứ 11 kể từ ngày nộp đủ hồ sơ thay vì từ ngày làm việc thứ 16 như hiện hành).
Đồng thời, Luật cũng sửa đổi điều kiện hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo hướng giúp người sử dụng lao động dễ tiếp cận hơn. Qua đó, nhằm tăng số lượng người sử dụng lao động được hỗ trợ, góp phần duy trì, phát triển việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp. Cụ thể bỏ các điều kiện về: gặp khó khăn do duy giảm kinh tế hoặc vì lý do bất khả kháng buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh; không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động.
Theo đánh giá của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Luật Việc làm (sửa đổi) có nhiều điểm mới, mang lại ý nghĩa và tác động tích cực đối với thị trường lao động và người lao động. Các điểm mới này hướng tới mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động nâng cao kỹ năng nghề, và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động, đặc biệt là lao động phi chính thức. Điều này giúp tăng cường lưới an sinh xã hội nói chung và bảo vệ, giảm thiểu rủi ro cho người lao động khi mất việc làm nói riêng./.