nước thải công nghiệp

Nguồn thu phí nước thải công nghiệp và sinh hoạt được điều tiết lại cho ngân sách địa phương chi trả cho bảo vệ môi trường. Ảnh: TL.

Về phí BVMT đối với nước thải, theo quy định, nước thải sinh hoạt sẽ để lại 10% cho đơn vị cung cấp nước sạch và 25% cho UBND xã, phường, thị trấn để trang trải chi phí cho hoạt động thu phí... Phần còn lại sau khi trừ số tiền phí được trích để lại đơn vị cung cấp nước sạch và UBND xã, phường, thị trấn nộp vào ngân sách địa phương sử dụng theo quy định.

Đối với nước thải công nghiệp, để lại 25% trên tổng sổ tiền phí BVMT thu được cho tổ chức thu phí để trang trải chi phí cho hoạt động thu phí (điều tra, thống kê, rà soát, phân loại, cập nhật, quản lý đối tượng chịu phí); trang trải chi phí đo đạc, đánh giá, lấy mẫu…; kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với nước thải công nghiệp; phần còn lại (75% trên tổng số phí BVMT đổi với nước thải công nghiệp thu được) được nộp vào ngân sách địa phương sử dụng theo quy định.

Căn cứ các quy định nêu trên, số tiền phí BVMT đối với nước thải sau khi trừ số tiền phí được trích để lại theo quy định được nộp vào ngân sách địa phương sử dụng cho công tác BVMT; bổ sung nguồn vốn hoạt động cho Quỹ BVMT của địa phương sử dụng cho việc phòng ngừa, hạn chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường...

Theo Bộ Tài chính, trong năm 2017, số phí thu được từ hai nguồn phí này là hơn 2.100 tỷ đồng, trong khi năm 2015 là 1.082 tỷ đồng.

Về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản, theo quy định phí BVMT đối với khai thác khoáng sản không kể dầu thô và khí thiên nhiên, khí than là khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% để hỗ trợ cho công tác bảo vệ và đầu tư cho môi trường tại địa phương nơi có hoạt động khai thác khoáng sản theo Luật BVMT và Luật Ngân sách nhà nước.

Phí BVMT đối với dầu thô và khí thiên nhiên, khí than là khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%.

Số thu phí BVMT đối với khai thác khoáng sản trong năm 2017 là hơn 2.452 tỷ đồng (không bao gồm thu phí đối với dầu thô và khí thiên nhiên).

Theo Bộ Tài chính, khai thác khoáng sản có tác động lớn, ảnh hưởng xấu đối với môi trường xung quanh. Việc khai thác khoáng sản có thể làm phá vỡ cấu trúc địa chất và cảnh quan, tạo ra các bãi thải hoặc hồ chứa với diện tích lớn. Các tác động môi trường vẫn có thể tiếp diễn sau khi kết thúc hoạt động khai thác.

Chính vì vậy, việc quản lý sử dụng phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được quy định rõ để hỗ trợ cho công tác bảo vệ và đầu tư cho môi trường nhằm phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu, khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường./.

Minh Anh