Xăng khoáng không khuyến khích sử dụng sẽ có thuế BVMT cao hơn xăng sinh học.

Xăng khoáng không khuyến khích sử dụng sẽ có thuế BVMT cao hơn xăng sinh học.

Đa số ý kiến đồng thuận với Bộ Tài chính giữ nguyên đề xuất tăng thuế BVMT với xăng, dầu mazut (FO) và dầu nhờn...

Điều chỉnh tăng thuế đối với dầu hỏa

Sau khi gửi xin ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp..., Bộ Tài chính đã nhận được 60 ý kiến tham gia, trong đó có 14 ý kiến của các bộ, ngành; 42 ý kiến của các địa phương; 4 ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức khác. Theo Bộ Tài chính, các ý kiến đều nhất trí với sự cần thiết và nội dung của dự thảo nghị quyết (40/60 ý kiến nhất trí hoàn toàn).

Tại dự thảo nghị quyết gửi lấy ý kiến đề nghị điều chỉnh mức thuế BVMT như sau: Xăng tăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần trong khung 4.000 đồng/lít, tăng 1.000 đồng/lít; dầu mazut, dầu nhờn tăng từ 900 đồng/lít lên mức trần trong khung 2.000 đồng/lít, tăng 1.100 đồng/lít; mỡ nhờn tăng từ 900 đồng/kg lên mức trần trong khung 2.000 đồng/kg, tăng 1.100 đồng/kg; nhiên liệu bay giữ như hiện hành là 3.000 đồng/lít (mức trần trong khung thuế) và 300 đồng/lít đối với dầu hỏa (mức sàn trong khung thuế).

Trong đó, đa số các ý kiến nhất trí với nội dung dự thảo, do đó Bộ Tài chính giữ nguyên đề xuất tăng thuế BVMT với xăng, dầu mazut (FO) và dầu nhờn. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị điều chỉnh mức thuế BVMT đối với dầu mazut tăng từ 900 đồng/lít lên 1.500 đồng/lít hoặc điều chỉnh tăng từ 900 đồng/lít lên 1.200 đồng/lít để không ảnh hưởng đến giá thành của các sản phẩm sử dụng nhiên liệu dầu mazut, do đây là nhiên liệu đầu vào chủ yếu của các nhà máy điện, sản xuất kính, gốm sứ...

Lý giải về vấn đề này, Bộ Tài chính cho rằng, dầu mazut (FO) là loại chất đốt gây ô nhiễm môi trường vì chứa hàm lượng lưu huỳnh cao (từ 2.0 - 3.5 mg/kg), khi đốt cháy sẽ tạo ra khí sunfuaro (SO2), một loại khí rất độc hại cho môi trường. Vì vậy, để hạn chế việc sử dụng sản phẩm nhiên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm môi trường, Bộ Tài chính đề nghị giữ như dự thảo nghị quyết (đề nghị điều chỉnh tăng mức thuế BVMT đối với dầu mazut từ 900 đồng/lít lên mức trần trong khung 2.000 đồng/lít).

Với mặt hàng dầu hỏa, trước đó, Bộ Tài chính đề xuất mức thuế 300 đồng/lít đối với dầu hỏa, là mức sàn trong khung thuế. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị điều chỉnh tăng mức thuế BVMT đối với mặt hàng này lên 3.000 đồng/lít (tương đương mức thuế của nhiên liệu bay) do nhu cầu dầu hỏa để thắp sáng ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa gần như không đáng kể vì mạng lưới điện ngày càng phủ kín đến các địa bàn này. Ngoài ra, cần giảm độ chênh lệch giá với mặt hàng xăng, tránh gian lận thương mại nên một số ý kiến đề xuất Bộ Tài chính tăng thuế đối với mặt hàng này. Tiếp thu ý kiến nêu trên, để phù hợp với mức thuế BVMT dự kiến điều chỉnh của các sản phẩm dầu, mỡ nhờn khác, Bộ Tài chính đề nghị điều chỉnh mức thuế BVMT đối với dầu hỏa từ 300 đồng/lít lên mức trần là 2.000 đồng/lít.

Đã cân nhắc đến sức mua và lạm phát

Trước ý kiến đề nghị cần có lộ trình tăng mức thuế BVMT đến năm 2020 để phù hợp với nền kinh tế và sức mua của người dân, Bộ Tài chính cho rằng, việc đề xuất điều chỉnh mức thuế đối với từng hàng hóa chịu thuế tại dự thảo nghị quyết, trong đó có mặt hàng xăng dầu (điều chỉnh tăng 3.000 đồng/lít lên 4.000 đồng/lít, tăng 1.000 đồng/lít đối với xăng) là đảm bảo trong khung mức thuế BVMT và phù hợp với các nguyên tắc quy định mức thuế BVMT quy định tại Luật Thuế BVMT.

Với phương án điều chỉnh mức thuế BVMT nêu trên và dự kiến có hiệu lực từ ngày 1/7/2018, Bộ Tài chính đã tính toán đến những tác động tới chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Theo đó, việc điều chỉnh mức thuế BVMT sẽ tác động đến CPI tháng 7/2018 (so với tháng 6/2018) là khoảng 0,27% - 0,29% và sẽ tác động đến CPI bình quân năm 2018 là khoảng 0,11% - 0,15% (theo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, chỉ tiêu CPI bình quân ở mức 4%). Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, việc tăng thuế BVMT sẽ khuyến khích sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường. Từ đó, sẽ giảm phát thải ô nhiễm môi trường, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường và thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT.

Ngoài các ý kiến trên, Bộ Tài chính cũng nhận được 1 ý kiến đề nghị cần công khai số thu thuế BVMT và chi cho sự nghiệp BVMT. Bộ Tài chính lý giải: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước (NSNN), tất cả nguồn thu từ thuế, trong đó có thuế BVMT đều tập trung vào NSNN và được phân bổ chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo dự toán Quốc hội quyết định hàng năm, trong đó có thực hiện nhiệm vụ chi cho BVMT. Trên thực tế, nhiều năm nay, chi NSNN để thực hiện các nhiệm vụ BVMT luôn cao hơn số thuế BVMT thu được.

Tổng chi NSNN cho các nhiệm vụ BVMT giai đoạn 2012 - 2016 (chưa tính chi các hoạt động kinh tế, chi đầu tư phát triển, chi dự phòng của ngân sách địa phương cho các nhiệm vụ BVMT và các khoản vay, viện trợ chi trực tiếp cho dự án về BVMT không đưa vào NSNN) khoảng 131.857 tỷ đồng (bình quân khoảng 26.371 tỷ đồng/năm), cao hơn số thu thuế BVMT giai đoạn 2012 - 2016 (bình quân khoảng 21.197 tỷ đồng/năm).

Khi dự thảo nghị quyết gửi lấy ý kiến được đưa ra, trả lời phỏng vấn phóng viên TBTCVN, nhiều chuyên gia kinh tế đã đồng tình với đề xuất của Bộ Tài chính. Các chuyên gia cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nóng kèm theo ô nhiễm về môi trường, cần thiết phải có giải pháp tài chính đủ mạnh để điều tiết hành vi của các tổ chức, cá nhân nếu gây tổn hại đến môi trường. Cùng với đó, cần thiết phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với bảo vệ môi trường và sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường.

Dự thảo Nghị quyết về biểu thuế BVMT dự kiến trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến, thông qua tại kỳ họp tháng 5/2018.

Minh Anh