Thực trạng, khả năng cung ứng vốn tín dụng đầu tư

Ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn tín dụng đầu tư (TDĐT) của Nhà nước đang được cung ứng qua một định chế tài chính đặc biệt của Chính phủ là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Đối tượng sử dụng vốn TDĐT nhà nước là các dự án thuộc danh mục do Chính phủ quy định từng thời kỳ, trong đó chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (KT-XH), phát triển nông nghiệp, nông thôn và phát triển công nghiệp.

Ngoài ra, nguồn vốn TDĐT nhà nước còn tài trợ cho một số loại dự án đầu tư được thực hiện tại một số địa bàn thuộc diện ưu tiên theo chính sách của Nhà nước (địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn; vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc Chương trình 135 và các xã biên giới thuộc Chương trình 120, các xã vùng bãi ngang…).

Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế

Cho vay đầu tư dự án Nhà máy Nhiệt diện Ô Môn.

Kể từ khi thành lập (năm 2006) đến nay, VDB đã cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn TDĐT của nhà nước rất lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH cũng như nâng cao năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. Tính chung trong cả giai đoạn 2006 - 2020, số vốn TDĐT của nhà nước đã tài trợ cho các dự án qua VDB chiếm khoảng 0,5% GDP và gần 1,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ.

Tuy nhiên, trong một số năm gần đây, quy mô tài trợ vốn TDĐT của Nhà nước hàng năm có xu hướng sụt giảm. Nếu như năm 2015, số vốn TDĐT của Nhà nước giải ngân trong năm là 25.947 tỷ đồng và dư nợ TDĐT cuối năm đạt tới 142.823 tỷ đồng, thì đến năm 2020, con số tương ứng chỉ còn lại lần lượt là 872 tỷ đồng và 91.986 tỷ đồng. So với năm 2015, dư nợ TDĐT của Nhà nước năm 2020 tại VDB chỉ bằng 64,4%.

Nguyên nhân cơ bản của tình trạng nói trên chủ yếu là do Chính phủ thu hẹp danh mục đối tượng sử dụng vốn TDĐT của Nhà nước qua từng giai đoạn. Đồng thời, Chính phủ giảm dần các ưu đãi về điều kiện cho vay của nguồn vốn này, đặc biệt là lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay. Bên cạnh đó, xuất phát từ khó khăn trong việc cân đối ngân sách nhà nước, Chính phủ cũng không bố trí đủ nguồn lực tài chính cho VDB tương xứng với nhiệm vụ thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, từ việc không cấp đủ vốn điều lệ cho đến việc không thanh toán kịp thời các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh hàng năm của VDB.

Ngoài ra, sự sụt giảm quy mô cung ứng vốn TDĐT của Nhà nước còn bắt nguồn từ một nguyên nhân rất quan trọng là sự hạn chế về thẩm quyền quyết định của VDB đối với các vấn đề phát sinh trong hoạt động TDĐT, từ việc xác định kế hoạch tăng trưởng tín dụng và kế hoạch huy động vốn hàng năm cho đến việc phán quyết các vấn đề liên quan đến các dự án vay vốn (như lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay, mức vốn cho vay, biện pháp xử lý rủi ro…).

Cụ thể, theo quy định về đầu tư công và quản lý nợ công, quy mô cho vay vốn TDĐT của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thông qua kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển được giao cho VDB hàng năm; quy mô phát hành trái phiếu để huy động vốn phục vụ hoạt động tín dụng này được quyết định thông qua hạn mức bảo lãnh của Chính phủ cấp cho VDB hàng năm.

Theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, lãi suất cho vay đối với các dự án được thực hiện theo lãi suất do Bộ Tài chính quyết định, việc cho vay vượt 70% tổng mức đầu tư của dự án phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Còn theo quy định tại Nghị định số 32/2017/NĐ-CP, các dự án có nhu cầu vay vốn quá 15 năm hoặc không đáp ứng đủ yêu cầu chung về bảo đảm tiền vay phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Cũng theo quy định tại hai nghị định nêu trên, các biện pháp xử lý rủi ro vốn TDĐT của Nhà nước mà VDB được quyết định chủ yếu là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ, còn các biện pháp khác (khoanh nợ, xoá nợ gốc, xoá nợ lãi, bán nợ…) phải được quyết định bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ…

Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển

Kết quả phân tích cho thấy, yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, trong đó bao gồm cả vốn TDĐT của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai hoạt động TDĐT của Nhà nước những năm gần đây cho thấy, để có thể mở rộng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế thì hoạt động TDĐT của Nhà nước cần phải được đổi mới trên nhiều phương diện, bao gồm cả chính sách về TDĐT của Nhà nước, cũng như quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi chính sách này, nhằm khắc phục những bất cập đã được chỉ ra ở trên.

Với yêu cầu đó, VDB và các cơ quan quản lý nhà nước phối hợp nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ thực hiện một số giải pháp.

Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.

Thứ nhất, mở rộng danh mục đối tượng vay vốn TDĐT của Nhà nước theo hướng xem xét bổ sung một số loại hình dự án thuộc các lĩnh vực được ưu tiên phát triển theo Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021 - 2030, bên cạnh các dự án thuộc danh mục đối tượng vay vốn TDĐT của Nhà nước được quy định tại Nghị định số 32/2017/NĐ-CP hiện nay.

Thứ hai, sửa đổi các quy định về điều kiện vay vốn TDĐT của Nhà nước theo hướng cho phép VDB được thực hiện chính sách phân biệt lãi suất cho vay và tỷ lệ bảo đảm tiền vay theo khách hàng vay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có uy tín và có dự án hiệu quả được vay vốn với lãi suất thấp hơn và tỷ lệ bảo đảm tiền vay nhỏ hơn so với các doanh nghiệp khác. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay đối với mỗi khoản vay do VDB quyết định và chịu trách nhiệm theo mức độ rủi ro của khoản vay.

Thứ ba, ưu tiên để VDB được huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp từ các quỹ tài chính nhà nước hoặc xem xét cấp bảo lãnh để VDB huy động vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế trong trường hợp VDB tìm được nguồn vốn giá rẻ từ các tổ chức này. Đồng thời, Chính phủ tạo điều kiện cho VDB phát hành trái phiếu kỳ hạn phù hợp với yêu cầu cho vay đối với các dự án đầu tư có thời hạn thu hồi vốn dài thuộc đối tượng sử dụng vốn TDĐT của Nhà nước.

Thứ tư, bố trí ngân sách nhà nước để cấp đủ vốn điều lệ của VDB theo lộ trình đã được phê duyệt tại Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, nhằm sớm đạt mức vốn điều lệ theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; thanh toán đủ số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý còn thiếu cho VDB trong thời gian qua, đồng thời không để tình trạng nợ đọng tương tự xảy ra trong các năm tiếp theo.

Thứ năm, đổi mới mô hình hoạt động của VDB theo hướng nâng cao tính tự chủ, trên cơ sở tính đủ chi phí huy động vốn và các chi phí quản lý hoạt động vào lãi suất cho vay, cùng với việc cho phép VDB cung ứng thêm một số dịch vụ ngân hàng có thu phí để tạo nguồn thu nhằm giảm dần số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước; đồng thời phân quyền mạnh hơn cho VDB trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng TDĐT của Nhà nước tương ứng với khả năng tự chủ về tài chính.

Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách như trên, để đáp ứng yêu cầu cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế thì bản thân VDB, với tư cách là cơ quan thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, cũng cần thực hiện các biện pháp để nâng cao năng lực của mình về mọi mặt, từ chất lượng nhân lực cho đến nền tảng công nghệ cũng như trình độ quản lý; chỉ trong trường hợp đó, hoạt động cung ứng vốn TDĐT của Nhà nước qua VDB mới có thể được mở rộng quy mô mà không gây ra rủi ro, tổn thất cho VDB hay gánh nặng cho ngân sách nhà nước./.

Định hướng phát triển kinh tế và yêu cầu về vốn đầu tư cho giai đoạn mới

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1/2021) đã thông qua Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm, giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu nước ta đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao.

Để đạt được mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định trong giai đoạn 2021 - 2030, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam dự kiến phải đạt bình quân khoảng 7%/năm, tổng vốn đầu tư xã hội bình quân đạt 33 - 35% GDP. Điều đó có nghĩa rằng việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển các ngành kinh tế ở nước ta phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021 - 2030 sẽ đòi hỏi một lượng vốn đầu tư phát triển rất lớn nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra.

Để đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư như trên, nền kinh tế sẽ phải huy động qua nhiều kênh khác nhau, như chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động qua thị trường chứng khoán…