PV: Bà đánh giá thế nào về những nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) để tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp?
![]() |
PGS.TS Vương Thị Thu Hiền |
PGS.TS Vương Thị Thu Hiền: Dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện khung pháp lý để quản lý các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, qua đó tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, một trong những trọng tâm là quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh sau khi xóa bỏ hình thức khoán thuế, đồng thời khuyến khích hộ kinh doanh chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Đẩy mạnh hiện đại hóa và chuyển đổi số toàn diện công tác quản lý thu thuế, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết và tích hợp để thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý thuế với ba trụ cột chính: Tạo thuận lợi cho người nộp thuế, nâng cao hiệu lực và trình độ quản lý, thúc đẩy số hóa quy trình quản lý thuế.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí thực hiện thủ tục cho người dân và doanh nghiệp. Đi kèm với đó là việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân có liên quan với cơ quan thuế trong việc chia sẻ dữ liệu, kết nối liên thông để thực hiện pháp luật về thuế và quản lý thuế; thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến toàn trình theo hướng tạo lập một "cửa sổ" tập trung, duy nhất, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Điều này nhằm tạo sự minh bạch, công khai và thuận tiện hơn cho người dân và doanh nghiệp.
PV: Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) đã tiếp cận theo tinh thần cải cách, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ và hướng tới mô hình quản lý dựa trên dữ liệu, đảm tính thống nhất, đồng bộ với các pháp luật liên quan và phản ánh rõ cam kết của ngành Thuế trong hội nhập quốc tế. Bà nhìn nhận thế nào về ý kiến trên?
![]() |
Hỗ trợ doanh nghiệp – nền tảng để kinh tế phát triển. Ảnh: ĐỨC THANH |
PGS.TS Vương Thị Thu Hiền: Tôi cho rằng, ý kiến trên là nhận định hoàn toàn có cơ sở và cần được ủng hộ.
Bởi vì, thứ nhất, xu hướng cải cách và hiện đại hóa quản lý thuế là tất yếu trong bối cảnh nền kinh tế số, khi giao dịch kinh tế ngày càng đa dạng, phức tạp và đòi hỏi cơ quan thuế phải nâng cao năng lực quản lý, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (AI) và kết nối cơ sở dữ liệu liên ngành giúp nâng cao tính minh bạch, hiệu quả giám sát và dự báo rủi ro, qua đó chuyển đổi mô hình quản lý từ “hậu kiểm” sang “tiền kiểm” và “quản lý rủi ro”.
Ban hành luật phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực số Theo PGS.TS Vương Thị Thu Hiền, việc ban hành luật phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực số, đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, ứng dụng AI và phân tích Big data để nâng cao năng lực thực thi của cơ quan thuế, qua đó tạo nền tảng pháp lý bền vững cho một hệ thống quản lý thuế hiện đại, minh bạch và hội nhập quốc tế. |
Thứ hai, dự thảo Luật đã được xây dựng theo hướng đồng bộ với các luật khác như Luật thuế Giá trị gia tăng; Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp; Luật thuế Xuất, Nhập khẩu; Luật Hải quan; Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Giao dịch điện tử; Luật Đất đai; Luật Tần số vô tuyến điện; Luật Thanh tra… giúp hạn chế chồng chéo, mâu thuẫn pháp lý và tạo thuận lợi cho người nộp thuế cũng như cơ quan quản lý.
Thứ ba, nội dung dự thảo Luật phản ánh rõ cam kết của ngành Thuế trong hội nhập quốc tế thông qua việc tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS), cũng như chuẩn hóa các quy định về quản lý thuế đối với giao dịch xuyên biên giới và thương mại điện tử. Như vậy, có thể thấy dự thảo Luật không chỉ mang tính đổi mới về mặt kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược nhằm xây dựng một hệ thống quản lý thuế hiện đại, minh bạch, công bằng và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập.
PV: Trong thời kỳ nền kinh tế số và thương mại điện tử xuyên biên giới phát triển bùng nổ, đặt ra nhiều thách thức với công tác quản lý thuế. Vậy bà có khuyến nghị gì để việc xây dựng Luật Quản lý thuế (thay thế) đảm bảo tính linh hoạt, lâu dài và thích ứng tốt với thực tiễn?
PGS.TS Vương Thị Thu Hiền: Theo tôi, để bảo đảm Luật Quản lý thuế (thay thế) có tính linh hoạt, lâu dài và thích ứng tốt với bối cảnh kinh tế số và thương mại điện tử xuyên biên giới, cần xây dựng Luật Quản lý thuế (thay thế) theo hướng khung, mở, tập trung quy định các nguyên tắc quản lý thuế mang tính nền tảng, trong khi các nội dung kỹ thuật, nghiệp vụ được cụ thể hóa ở văn bản dưới luật để dễ điều chỉnh khi mô hình kinh doanh và công nghệ thay đổi nhanh chóng.
Luật cần tăng cường cơ sở pháp lý cho công tác quản lý thuế dựa trên dữ liệu, cho phép cơ quan thuế thu thập, kết nối, phân tích dữ liệu từ nhiều nguồn như ngân hàng, hải quan, sàn thương mại điện tử, mạng xã hội, đồng thời bảo đảm an ninh thông tin và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Luật cũng nên tham chiếu chuẩn mực và thông lệ quốc tế, nhất là các nguyên tắc của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế về BEPS và các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần để bảo đảm tính tương thích và giảm nguy cơ tranh chấp.
Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) cho các mô hình kinh doanh số mới, giúp cơ quan thuế đánh giá tác động và hoàn thiện quy định kịp thời. Việc tăng cường cung cấp dịch vụ thuế điện tử, tư vấn trực tuyến, hỗ trợ tự động, kết hợp bảo đảm quyền lợi và bảo mật thông tin người nộp thuế là yếu tố then chốt để nâng cao mức độ tuân thủ tự nguyện.
PV: Xin cảm ơn bà!
Chuyển từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ” Theo Cục Thuế, đơn vị tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý, bảo đảm dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước hiện đại, vừa phù hợp với xu thế quốc tế, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Định hướng sửa đổi Luật Quản lý thuế lần này tập trung vào chuyển đổi số, hiện đại hóa và ứng dụng công nghệ trong quản lý thuế, chuyển đổi mô hình quản lý thuế theo chức năng sang mô hình quản lý theo đối tượng kết hợp chức năng nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu năng, hiệu lực. Đồng thời, tăng cường quản lý đối với các mô hình kinh tế mới; cải cách triệt để công tác quản lý thuế, chuyển từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm phục vụ. Thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện trên cơ sở phân loại mức độ tuân thủ pháp luật và mức độ rủi ro của người nộp thuế; đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính; tăng cường quản lý chống thất thu thuế. |