Điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ thành công trong năm 2025

Lãi suất liên ngân hàng lập đỉnh 8,72%, Ngân hàng Nhà nước bơm ròng hơn 6.100 tỷ đồng Giữ nhịp điều hành chính sách tiền tệ, tìm thế cân bằng mới hỗ trợ tăng trưởng năm 2026

Chiều ngày 29/12, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức họp báo thông tin kết quả hoạt động ngân hàng năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026.

Hỗ trợ thanh khoản cuối năm, tín dụng tăng 17,87%

Đại diện Ngân hàng Nhà nước, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, năm 2025, bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt nhiều rủi ro, bất định. Kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại, chịu tác động bởi nhiều yếu tố: chính sách thuế quan thay đổi nhanh chóng, căng thẳng địa chính trị gia tăng, lộ trình chính sách tiền tệ khó đoán định của các ngân hàng trung ương lớn.

Lạm phát mặc dù hạ nhiệt, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng trở lại. Rủi ro tiềm ẩn trên thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường hàng hóa toàn cầu là rất lớn… Với độ mở lớn của nền kinh tế, các yếu tố này đã tác động đáng kể tới thị trường tài chính - tiền tệ trong nước.

Tín dụng áp sát 18%, huy động chậm nhịp, đẩy áp lực lãi suất dồn về cuối năm
Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà chủ trì buổi họp báo. Ảnh: Ngân hàng Nhà nước.

Trong nước, năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá, về đích để thực hiện đạt kết quả cao nhất Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Đồng thời, cũng là năm tích cực chuẩn bị, củng cố nền tảng cho giai đoạn 2026 - 2030, hướng tới mục tiêu tăng trưởng từ 8% trở lên, tạo nền tảng cho tăng trưởng 2 con số trong những năm tới.

Theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, để hỗ trợ thanh khoản thị trường vào thời điểm cuối năm và Tết Nguyên đán, bên cạnh cung ứng tiền qua kênh nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước triển khai nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ với các tổ chức tín dụng, qua đó góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá.

Tính đến ngày 24/12/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 18,4 triệu tỷ đồng, tăng 17,87% so với đầu năm, tăng 19,41% so với cùng kỳ năm 2024.

Về điều hành chính sách tiền tệ, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà thông tin, Ngân hàng Nhà nước điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.

Về điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp, qua đó có điều kiện để hỗ trợ nền kinh tế.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước thường xuyên chỉ đạo tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và các giải pháp khác để phấn đấu hạ lãi suất cho vay; sẵn sàng chia sẻ một phần lợi nhuận nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

"Kết quả, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm, doanh nghiệp và người dân đang tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp hơn trước đây" - Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà nêu rõ.

Trong khi đó, tỷ giá năm 2025 vẫn chịu áp lực lớn do tác động bất lợi từ bối cảnh quốc tế và diễn biến khó đoán định từ chính sách lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Cùng với đó, khuôn khổ pháp lý và chính sách trong hoạt động thanh toán tiếp tục được hoàn thiện, thúc đẩy chuyển đổi số và thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân và doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển của kinh tế đất nước.

Gợi mở định hướng điều hành năm 2026

Tại cuộc họp báo, các vấn đề liên quan đến lãi suất điều hành, lãi suất huy động và diễn biến thanh khoản của hệ thống ngân hàng trong những tháng cuối năm đã thu hút sự quan tâm lớn.

Theo lý giải của Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), mặt bằng lãi suất có nhiều sức ép tăng do nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng gia tăng vào thời điểm cuối năm. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng huy động vốn thấp hơn đáng kể so với tăng trưởng tín dụng.

Tính đến ngày 24/12, huy động vốn tăng khoảng 14,11%; trong khi tín dụng tăng 17,87% so với cuối năm 2024. Huy động vốn còn bị cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác, khiến lãi suất ngân hàng có xu hướng tăng do áp lực thanh khoản.

Ông Phạm Chí Quang - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, tăng trưởng tín dụng toàn ngành năm nay dự báo đạt khoảng 19%, mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, đẩy dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam lên tới khoảng 146%, thuộc nhóm cao trong khu vực các nước có thu nhập trung bình thấp.

"Ngành ngân hàng có đặc thù đại đa số (80%) nguồn vốn ngắn hạn, trong khi khoảng 50% dư nợ cho vay là trung và dài hạn, tạo ra rủi ro chênh lệch kỳ hạn, nhất là khi dư nợ/GDP lớn" - ông Quang nêu rõ.

Từ đầu tháng 12 đến nay, thanh khoản hệ thống đã xuất hiện những khó khăn nhất định. Đây là bài toán đánh đổi không đơn giản. Khi tăng trưởng tín dụng ở mức cao, thì rất khó duy trì mặt bằng lãi suất giảm sâu, dù Ngân hàng Nhà nước đã nỗ lực điều hành để đạt được mục tiêu này trong bối cảnh nhiều thách thức.

Trước thực tế đó, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp điều hành, bao gồm cả các biện pháp mới như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (FX Swap) nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán và bảo đảm thanh khoản cho hệ thống.

Tín dụng áp sát 18%, huy động chậm nhịp, đẩy áp lực lãi suất dồn về cuối năm
Toàn cảnh buổi họp báo. Ảnh: Ngân hàng Nhà nước.

Đánh giá về bối cảnh trong và ngoài nước ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ năm 2026, ông Phạm Chí Quang cho biết, bối cảnh quốc tế tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn, thách thức, khi môi trường kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều yếu tố bất biến, khó lường, đặc biệt là những xung đột địa chính trị, chính sách thuế quan của Mỹ. Trong nước, nền kinh tế chịu tác động của bão lũ, thiên tai; mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc lớn vào xuất khẩu nên chịu ảnh hưởng nhất định trong bối cảnh chung.

Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam biến động mạnh, cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và dòng vốn gián tiếp nước ngoài đều có sự thay đổi, dù có tác động tích cực từ việc nâng hạng thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, Việt Nam đang chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa trên các động lực cũ sang mô hình mới dựa trên kinh tế số, đổi mới sáng tạo và kinh tế xanh, trên nền tảng điều hành chính sách tiền tệ có trọng tâm, trọng điểm.

Theo đó, ông Phạm Chí Quang cho biết, định hướng điều hành chính sách trong năm 2026 sẽ có những chuyển động phù hợp với chủ trương chung, ưu tiên kiểm soát vĩ mô và kiểm soát lạm phát./.