Thu hút nguồn vốn lớn cho phát triển

Thời gian qua, việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế cùng với các biện pháp cải cách có liên quan khác đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với nguồn vốn ngoài nhà nước.

Nguồn vốn FDI cùng với các nguồn vốn khác của khu vực tư nhân trong nước đã trở thành các động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong hơn hai thập niên vừa qua. Những năm gần đây, quy mô vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP của Việt Nam vẫn được duy trì ở mức khá cao, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ở mức 31,7% GDP và giai đoạn 2016 - 2020 ở mức là 33,27%, đạt mục tiêu đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.

Việt Nam đã trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn cho nguồn vốn FDI, trong đó những cải cách về chính sách thuế và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đã có vai trò quan trọng nâng cao sự hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các dự án có quy mô lớn của các công ty đa quốc gia một phần là nhờ sự hiện diện của các chính sách ưu đãi đầu tư, trong đó có các chính sách ưu đãi về thuế TNDN phù hợp. Sự phát triển của khu vực FDI giai đoạn vừa qua cũng đã góp phần hỗ trợ tốt hơn cho quá trình dịch chuyển cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Năm 2020, xuất khẩu của các doanh nghiệp (DN) FDI chiếm đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Nguồn: Bộ Tài chính. Đồ họa: Thế Dương
Nguồn: Bộ Tài chính. Đồ họa: Thế Dương

Nếu nhìn lại chúng ta thấy rằng, chính sách thuế TNDN đã được xây dựng, hoàn thiện đảm bảo minh bạch, dễ thực hiện; đảm bảo đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với thực tiễn, góp phần đảm bảo quyền lợi và tạo thuận lợi cho DN, người nộp thuế...

Đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách

Đáng chú ý, theo thống kê mới đây của Bộ Tài chính, quy mô thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ thuế TNDN ngày càng được mở rộng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chi NSNN, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và giải quyết việc làm. Tỷ trọng thu từ thuế TNDN trong tổng thu NSNN giảm thu vào những thời điểm thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN (giảm thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 22% từ năm 2014 và giảm từ 22% xuống 20% từ năm 2016).

Tuy nhiên, tỷ trọng thu có xu hướng tăng dần những năm sau đó, từ mức 13,58% trong năm 2017 lên 15,99% trong năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 chiếm 14,4% tổng thu NSNN, giảm nhẹ so với trung bình 15,1% của giai đoạn 2011 - 2015. Xét theo tỷ trọng so với GDP, quy mô thu NSNN từ thuế TNDN (không tính dầu thô) giai đoạn 2011 - 2015 là 3,6%, giai đoạn 2016 - 2020 là 3,7%.

Thuế suất phổ thông có tính cạnh tranh cao trong thu hút đầu tư

Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phổ thông đang được áp dụng hiện nay (là 20%) cùng với các chính sách ưu đãi được cho là có tính cạnh tranh cao trong thu hút đầu tư. Theo đánh giá đối với trường hợp dự án có thời gian hoạt động 50 năm nếu được áp dụng mức ưu đãi tối đa thì mức thuế suất trung bình vào khoảng 12,3%/năm. So với các nước trong khu vực ASEAN, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông 20% là bằng với mức thuế suất đang áp dụng tại Thái Lan, Lào, Campuchia; thấp hơn so với Philippines (30%), Myamar (25%), Malaysia (24%), Indonesia (22%) và cao hơn so với Singapore (17%), Brunei (18,5%). Mức thuế suất ưu đãi 12,3% và mức thuế suất phổ thông 20% hiện nay cũng là phù hợp.

Như vậy, có thể thấy mặc dù mức thuế suất phổ thông thuế TNDN được giảm đáng kể, nhưng nhờ sự tăng trưởng và việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng, quy mô thu NSNN từ thuế TNDN xét theo cơ cấu trong tổng thu NSNN và so với GDP cơ bản vẫn được duy trì.

Về cơ bản, thời gian qua ngành Tài chính đã tiến từng bước vững chắc trong cơ cấu một bước thu - chi ngân sách, thu NSNN chặt chẽ, hiệu quả, đáp ứng các nhiệm vụ chi trong dự toán và các nhiệm vụ cấp bách phát sinh. Đánh giá cao nỗ lực của ngành Tài chính, tại Hội nghị Tổng kết nhiệm vụ năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023, Thủ tướng Chính phủ khẳng định, ngành Tài chính góp phần quan trọng vào thực hiện thành công các mục tiêu về kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm các cân đối lớn nền kinh tế - NSNN. Ðiều này càng trở nên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh phục hồi sau đại dịch Covid-19. Đáng chú ý, Bộ Tài chính chủ động rà soát hệ thống pháp luật và đề xuất triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho DN, người dân.

Những chính sách về thuế, phí, lệ phí đã giúp DN hồi sinh sau khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh từ đó quay trở lại đóng góp cho nguồn thu ngân sách. Đây cũng chính là mục đích lâu dài của Bộ Tài chính khi triển khai đồng bộ các chính sách cả trong trước mắt cũng như lâu dài.

Nhanh chóng phát huy hiệu quả trên thực tiễn

Thời gian qua, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đã được sử dụng linh hoạt, hiệu quả để hỗ trợ cho nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn, tăng trưởng chậm. Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế TNDN theo nội dung đã đề ra của Chiến lược Cải cách hệ thống thuế, tại những thời điểm khó khăn của nền kinh tế, một số chính sách về miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế TNDN cũng đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ, trình Quốc hội ban hành hoặc ban hành theo theo thẩm quyền nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp (DN) vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển đầu tư, kinh doanh. Trong đó, phải đặc biệt kể đến giai đoạn 2011 - 2013 khi nền kinh tế phải ứng phó với các tác động bất lợi của tình hình kinh tế vĩ mô và trong 3 năm gần đây là trước các ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.

Năm 2021, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, như hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của DN, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19 và áp dụng cho kỳ tính thuế TNDN các năm 2020 và năm 2021; trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 quy định các giải pháp về miễn, giảm thuế thuộc thẩm quyền của Quốc hội với 4 giải pháp có tổng giá trị hỗ trợ gần 20 nghìn tỷ đồng, trong đó, có giải pháp tiếp tục giảm 30% số thuế TNDN phải nộp của năm 2021 đối với DN, tổ chức có doanh thu không quá 200 tỷ đồng và doanh thu năm 2021 giảm so với năm 2019.

Năm 2022, Bộ Tài chính trình Chính phủ, trình Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có giải pháp tiếp tục cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của DN, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam cho kỳ tính thuế năm 2022.

Việc thực hiện các chính sách này trong những giai đoạn vừa qua đã được cộng đồng DN đánh giá là có tác động tích cực, kịp thời và đã nhanh chóng phát huy hiệu quả trên thực tiễn. Qua đó, cùng với việc tổ chức thực hiện các chính sách có liên quan khác đã góp phần quan trọng trong việc từng bước khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện sự chia sẻ của nhà nước với người dân trong những giai đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn.

Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tập trung xây dựng, rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN); tiếp tục nghiên cứu các giải pháp chính sách thuế, phí, lệ phí phù hợp với tình hình thực tế để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN và người dân, tiết giảm chi phí cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, tiếp tục làm tốt công tác quản lý thu NSNN, bảo đảm thu đúng, đủ, kịp thời các khoản thu; đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, trốn lậu thuế…