Áp lực lên công tác dự báo và vận hành hồ ngày càng lớn
Tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” tại Hà Nội do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chiều ngày 21/11, TS. Nguyễn Văn Mạnh - Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi) thông tin, cả nước hiện có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ khoảng 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và mới gần 200 hồ có cửa van chủ động. Trong bối cảnh mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025, áp lực lên công tác dự báo và vận hành hồ ngày càng lớn.
Ông Phan Tiến An - Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi), cho biết thêm, hệ thống 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi trên cả nước đóng vai trò thiết yếu cho tưới tiêu, cấp nước và phát triển kinh tế.
![]() |
| Thời gian tới cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Ảnh minh họa. |
| Gắn mã định danh cho từng công trình thủy lợi Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đối với các công trình thủy lợi, hồ đập, mỗi công trình cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch. Chuyển đổi số còn giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. |
Mùa mưa lũ 2025 tuy không ghi nhận sự cố lớn, nhưng nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý vẫn bộc lộ nhiều rủi ro, chỉ 30% có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn, 19% có thiết bị quan trắc; nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ.
Theo ông An, thách thức lớn nhất là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng trang thông tin điện tử http://thuyloivietnam.vn từ năm 2016. Trong đó, hầu hết các hồ chứa thủy lợi được lưu trữ trên phần mềm nhưng chỉ có khoảng 900 hồ có thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ, các hồ chứa còn lại chỉ có tên hồ, dung tích và vị trí, thiếu nhiều thông tin; chưa có các thông số kỹ thuật của 592 đập dâng.
Thúc đẩy chuyển đổi số mạnh mẽ
Để giải quyết những bất cập trên, ông Phan Tiến An nêu giải pháp cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa.
Trước tiên là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.
Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.
Nhằm tăng cường dữ liệu và công nghệ để vận hành công trình thủy lợi an toàn, ông Nguyễn Văn Mạnh cũng đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương.
Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động Vrain và các nền tảng thời tiết như WeatherPlus. Việc này giúp đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán. Cùng với đó, ngành cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích nhanh dữ liệu mưa, dòng chảy và hỗ trợ dự báo.
![]() |
| Ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phát biểu tại diễn đàn. |
Thừa nhận mưa lũ cực đoan đã phơi bày loạt vấn đề trong vận hành hồ chứa và dự báo thời tiết, ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đề xuất giải pháp, hồ chứa hiện nay phải được nhìn nhận như công trình đa mục tiêu vừa giữ an toàn công trình và hạ du, vừa cung cấp nước sản xuất, sinh hoạt, vừa phục vụ phát điện. Trước bối cảnh mưa lũ ngày càng cực đoan, sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng việc ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Về định hướng sắp tới, ông Phong cho rằng ngành thủy lợi phải cập nhật lại dữ liệu mưa lũ, thông số thiết kế và tiêu chuẩn an toàn đập cho phù hợp với các giá trị cực đoan mới. Chuyển đổi số không chỉ là số hóa dữ liệu mà phải giải quyết được các bài toán thực tế như dự báo lũ, tính toán dung tích phòng lũ và hỗ trợ ra quyết định thời gian thực.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự kiến sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi vào giai đoạn 2027-2028 và xem xét sửa đổi, thay thế Nghị định 114 sau khi tổng kết đầy đủ những diễn biến cực đoan vừa qua. Những vấn đề như cơ chế điều chỉnh mực nước trước lũ, vận hành linh hoạt, nâng dung tích phòng lũ, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu và phần mềm dùng chung sẽ được nghiên cứu đưa vào các văn bản này.
| Liên quan đến nội dung chuyển đổi số, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã gắn mã định danh cho khoảng một nửa trong số hơn 86.000 công trình, đang phối hợp để hoàn thiện chuẩn cơ sở dữ liệu ngành, trước hết là với các hồ chứa. Định hướng tới đây là xây dựng một cơ sở dữ liệu dùng chung, với định dạng thống nhất, các địa phương cùng cập nhật, và một phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung cho quản lý, vận hành hồ chứa. Nhà nước sẽ hạn chế đầu tư dàn trải vào cảm biến, trạm đo, SCADA; thay vào đó, sẽ “mua dịch vụ” dữ liệu và dịch vụ hỗ trợ ra quyết định từ doanh nghiệp công nghệ, đúng tinh thần xã hội hóa chuyển đổi số: không mua thiết bị, mà mua giải pháp. |




