Ngày 25/6, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2025 do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức. Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2025 có chủ đề “Định vị vai trò của chính sách công nghiệp thúc đẩy khu vực tư nhân hướng tới tăng trưởng hai con số”.
Chính sách công nghiệp chủ động, chọn lọc và có định hướng dài hạn
Theo các chuyên gia, Việt Nam đang đứng trước khát vọng lớn về tăng trưởng kinh tế hai con số- một mục tiêu mang tính bước ngoặt nhằm thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn 2045. Trong bối cảnh đó, việc định vị vai trò của chính sách công nghiệp nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, vốn đã đóng góp trên 50% GDP và là trụ đỡ chính về việc làm trở thành yếu tố then chốt.
![]() |
Các diễn giả chia sẻ tại hội thảo. Ảnh: VNU |
Chia sẻ tại sự kiện, PGS.TS Nguyễn Trúc Lê - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế cho biết, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch (với tăng trưởng GDP đạt 7,09% trong năm 2024 và gần 7% trong quý I/2025) nhưng vẫn còn những điểm nghẽn mang tính cấu trúc, đặc biệt liên quan đến chính sách công nghiệp và khu vực tư nhân.
Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam là sản phẩm của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, đã liên tục xuất bản và công bố trong 17 năm qua, tập trung phân tích một cách độc lập, khách quan những thành tựu, khó khăn, cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô đồng thời thảo luận có chọn lọc một số vấn đề kinh tế lớn và chuyên sâu của Việt Nam. |
Trong đó, năng suất lao động của khu vực tư nhân còn thấp. Khu vực tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, 82% tổng số lao động. Nhưng năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độ liên kết chuỗi chưa cao.
Theo PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, mô hình tăng trưởng hiện tại vẫn phụ thuộc nhiều vào FDI và xuất khẩu thô. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) ở mức thấp và nhiều năm thậm chí âm.
Ông cũng chỉ ra các vấn đề như: đầu tư công nghiệp còn thiếu trọng tâm ngành – vùng; các chính sách hỗ trợ chưa tạo được cú huých cho doanh nghiệp nội địa bước vào chuỗi giá trị toàn cầu; hạn chế trong nghiên cứu phát triển (R&D), thiếu hạ tầng số, thiếu kết nối giữa khu vực công và tư; chính sách cần phải đồng bộ hóa hơn nữa và có một cơ chế giám sát thường xuyên, hiệu quả trong công tác thực thi chính sách.
Ông cho biết, kinh nghiệm của các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc cho thấy, không một nền kinh tế nào thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình mà không có chính sách công nghiệp chủ động, chọn lọc và có định hướng dài hạn.
Nhật Bản và Hàn Quốc đầu tư bài bản vào các ngành công nghiệp nền tảng, đi cùng chiến lược xuất khẩu và nâng cao chất lượng lao động. Đài Loan thành công nhờ chính sách công nghiệp định hướng đổi mới sáng tạo, tập trung vào bán dẫn và công nghệ cao. Trung Quốc kết hợp cải cách thể chế với xây dựng cụm công nghiệp trọng điểm – từ đó nâng cao năng lực nội sinh.
Tránh tư duy nóng vội, chạy theo “KPI tăng trưởng”
Theo bà Vanessa Kristina Steinmetz- Giám đốc quốc gia Viện FNF Việt Nam, khi thị trường toàn cầu trải qua sự biến động và bất ổn chưa từng có, Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường, vì không chỉ hướng đến mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế mà còn hướng đến tăng trưởng mạnh mẽ ở mức hai con số. Mục tiêu đó cho thấy động lực lớn để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, thịnh vượng hơn cho tất cả người dân.
![]() |
Bà Vanessa Kristina Steinmetz- Giám đốc quốc gia Viện FNF Việt Nam phát biểu tại sự kiện. Ảnh: VNU |
Theo bà, trọng tâm của sự chuyển đổi này là một nguyên tắc tự do cơ bản: khu vực tư nhân đóng vai trò là động lực năng động và sáng tạo nhất của tăng trưởng kinh tế bền vững. Các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã đóng góp hơn 50% GDP và là xương sống tạo ra việc làm.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa tăng trưởng hai con số đòi hỏi nhiều hơn là chỉ công nhận tầm quan trọng của khu vực tư nhân. Đó là phải tạo ra khuôn khổ thể chế cho phép các lực lượng thị trường phát triển mạnh mẽ trong khi giải quyết các thất bại của thị trường một cách thông minh và hiệu quả.
“Điều đó có nghĩa là tạo ra các khuôn khổ thông minh, đơn giản hóa các quy định, đảm bảo công bằng và hỗ trợ tiếp cận vốn, công nghệ và kỹ năng. Chính sách công nghiệp cần không chỉ dẫn dắt, mà phải tiếp thêm sức mạnh cho khu vực tư nhân” - bà Steinmetz nhấn mạnh.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số, báo cáo khuyến nghị, cần tránh tư duy nóng vội, chủ quan duy ý chí chạy theo “KPI tăng trưởng”, các chính sách vĩ mô cần ban hành một cách cẩn trọng, có đánh giá tác động đa chiều và có lộ trình cụ thể.
Bên cạnh đó, phát huy tinh thần cải cách và tinh gọn thể chế hướng tới hiệu lực, hiệu quả, hiện đại, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực thi để giảm rủi ro kinh doanh và chi phí tuân thủ , chi phí ngầm.
Đồng thời, thúc đẩy đồng bộ tổng cung và tổng cầu, nhất là các động lực phát triển bền vững của nền kinh tế dựa trên các mô hình tăng trưởng mới và gắn với xu hướng thương mại– đầu tư toàn cầu.
Với những rủi ro ngắn hạn, cần đảm bảo dư địa chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát, để hỗ trợ hoạt động kinh tế trong nước và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.
Trong trung hạn, nâng cao trình độ và kỹ năng cho lực lượng lao động và phát triển khoa học công nghệ nhằm cải thiện năng lực cạnh tranhè Tăng trưởng dựa trên đổi mới- sáng tạo và phát triển bền vững.
Trong dài hạn, xây dựng chiến lược và thực hiện các chính sách đầu tư phát triển công nghiệp và công nghệ trọng điểm có mục tiêu, có trọng tâm, đồng thời đảm bảo việc giải ngân đầu tư công một cách có hiệu quả, kết hợp các nguồn lực tư nhân trong nước và các nguồn vốn FDI trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, các ngành công nghiệp nói riêng.
Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 của các tổ chức quốc tế đã giảm nhẹ từ khoảng 6,4% vào cuối năm 2024 xuống khoảng 6,26% trong các báo cáo cập nhật gần đây nhất (đến tháng 5-6/2025). Mặc dù các dự báo quốc tế về tăng trường thường ở mức độ thận trọng cao trong bối cảnh có nhiều rủi ro tiềm ẩn, các báo cáo vĩ mô của VEPR (Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách) trước đây nhận định: trong điều kiện tăng trưởng thuận lợi, thường thì mức tăng trưởng thực tế cuối cùng cao hơn mức dự báo trung bình từ 1% đến tối đa 2%, còn ngược lại nếu điều kiện không thuận lợi, có thể giảm từ 0,8-1,5 %. |