Chiều 9/12, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.

Đánh giá chung, các đại biểu Quốc hội thống nhất cao với việc sửa đổi luật nhằm giải quyết các bất cập và tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp vừa qua chịu nhiều thiệt hại sau bão lũ.

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đóng góp các ý kiến về cơ chế kiểm soát để đảm bảo thu đúng, thu đủ, không để xảy ra gian lận thuế, thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, cần có những quy định cụ thể hóa, khả thi tại các nghị định, thông tư hướng dẫn và các công cụ để kiểm soát rủi ro, đồng bộ với các quy định trong Luật Quản lý thuế.

Gỡ vướng mắc về hoàn thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Bộ trưởng Bộ Tài chính giải trình tại phiên họp.

Áp dụng lại quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2016

Phát biểu giải trình, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã làm rõ các vấn đề được đại biểu Quốc hội quan tâm và khẳng định, sẽ tiếp thu tối đa các ý kiến để hoàn thiện dự thảo luật.

Mặc dù Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2024 mới có hiệu lực chỉ vài tháng, tuy nhiên, Bộ trưởng khẳng định việc sửa đổi là cần thiết và cấp bách bởi trong quá trình luật bắt đầu có hiệu lực thi hành, đã phát sinh nhiều vướng mắc mà các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nông sản như Vinafood 1, Vinfood 2, tổng công ty cà phê, chè… và các hiệp hội đã phản ánh. Qua tiếp xúc, lắng nghe, Chính phủ đã quyết tâm trình Quốc hội tiếp tục sửa đổi nội dung này.

Về chính sách thuế đối với hàng nông sản – vấn đề được đại biểu Quốc hội quan tâm nhiều nhất, Bộ trưởng cho biết Luật Thuế năm 2008 đã xác định đối tượng này chịu thuế 5%. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp lợi dụng mua bán hóa đơn lòng vòng qua nhiều khâu để gian lận hoàn thuế. Vì vậy, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2016 đã sửa đổi theo hướng đây là đối tượng không phải chịu thuế. Đến năm 2024, Luật được sửa đổi, đưa nông sản vào đối tượng chịu thuế với mức 5%, nhưng quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc.

Do vậy, Chính phủ đề nghị điều chỉnh lại theo đúng nội dung của Luật năm 2016. Bộ trưởng khẳng định tinh thần thực hiện sẽ theo cách thức của Luật năm 2016 và việc này đã được thực hiện ổn định trong thời gian dài, vì vậy các đại biểu Quốc hội có thể "hoàn toàn yên tâm".

Đảm bảo bình đẳng thuế cho thức ăn chăn nuôi trong nước

Về việc bỏ quy định tại Khoản 5 Điều 9 của luật hiện hành, dự thảo luật sửa đổi theo hướng lược bỏ nội dung về áp dụng thuế suất giá trị gia tăng cho sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản (chưa chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường) được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi dược liệu.

Bộ trưởng giải thích việc này nhằm đảm bảo áp dụng thuế giá trị gia tăng đồng bộ theo pháp luật về thức ăn chăn nuôi, và quan trọng là đảm bảo bình đẳng với thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, bởi thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không chịu thuế. Thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước hiện có thuế giá trị gia tăng đầu vào 5%, điều này phải tính vào chi phí, làm tăng giá bán, ảnh hưởng đến người chăn nuôi và giảm khả năng cạnh tranh. Việc sửa đổi sẽ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là trong bối cảnh nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều bởi thiên tai mưa lũ.

Gỡ vướng mắc về hoàn thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Đại biểu Tạ Văn Hạ phát biểu.

Liên quan đến đề nghị nghiên cứu xem xét vấn đề đánh thuế giá trị gia tăng đối với phân bón mà đại biểu Trần Văn Lâm và đại biểu Tạ Văn Hạ đề xuất, Bộ trưởng cho biết sẽ ghi nhận vấn đề này để tiếp tục nghiên cứu, rà soát và báo cáo cấp có thẩm quyền.

Vấn đề thứ ba được giải trình chi tiết là việc sửa đổi quy định điều kiện hoàn thuế, cụ thể là bãi bỏ yêu cầu bên bán đã kê khai nộp thuế giá trị gia tăng thì bên mua mới được hoàn thuế. Quy định này được xác định là một giải pháp quản lý thuế khi Luật Quản lý thuế chưa được sửa đổi.

Theo Bộ trưởng, việc bỏ nội dung quy định này có thể sẽ khiến cán bộ thuế vất vả hơn rất nhiều, thậm chí có những rủi ro nhất định trong quá trình quản lý. Song nếu không bỏ, thì lại phải để doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về việc quản lý thuế của một chủ thể kinh doanh khác. Do đó, nội dung này cần phải bỏ để đảm bảo sự công bằng.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, Bộ Tài chính nhận được rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp, cho rằng việc kê khai nộp thuế thuộc trách nhiệm của người bán, còn việc hoàn thuế là quyền lợi của người mua. Yêu cầu bên mua phải chứng minh bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ thuế là “không phù hợp" và gây khó khăn cho doanh nghiệp, vì bên mua không thể xác minh hay chứng minh được tình trạng nộp thuế của bên bán.

Ngoài ra, dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang trình Quốc hội tại kỳ họp này đã bổ sung các quy định để quản lý thuế chặt chẽ hơn đối với người nộp thuế, sử dụng biện pháp phân tích, đánh giá mức độ rủi ro, và bổ sung các biện pháp kiểm tra để không làm phát sinh khoảng trống pháp lý trong công tác hoàn thuế.

Gỡ vướng mắc về hoàn thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Đại biểu Trần Văn Lâm phát biểu.

Đề xuất Luật có hiệu lực ngay để sớm hỗ trợ nông nghiệp

Đối với ý kiến của đại biểu Thạch Phước Bình về việc làm rõ khái niệm "sơ chế thông thường", Bộ trưởng cho biết, nội dung này đã được quy định khá rõ trong Nghị định 181. Trong trường hợp có sai khác, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ có hướng dẫn, và do nội dung này đã thực hiện từ lâu nên về cơ bản "không có nhiều cái sự sai khác".

Về lo ngại của đại biểu Thạch Phước Bình rằng việc khấu trừ 100% thuế đầu vào khi đầu ra không chịu thuế sẽ tạo ra khoảng trống gian lận, Bộ trưởng làm rõ, thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ toàn bộ là đối với hàng hóa, dịch vụ không phải tính thuế giá trị gia tăng (theo Khoản 3 Điều 1 dự thảo luật). Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng sẽ không được khấu trừ (theo Khoản 27 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng).

Đồng thời, Luật cũng đã có quy định cụ thể về điều kiện khấu trừ thuế đầu vào, bao gồm hóa đơn giá trị gia tăng hoặc chứng từ nộp thuế ở khâu nhập khẩu, và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.

Đối với thời điểm có hiệu lực thi hành, Bộ trưởng cho biết, hiện nay các điều kiện cần thiết, bao gồm nghị định, thông tư hướng dẫn và chương trình phần mềm hóa đơn, đã được Bộ Tài chính chuẩn bị đầy đủ.

Do đó, đề xuất Quốc hội cho phép Luật có hiệu lực ngay từ ngày 1/1/2026 để kịp thời hỗ trợ chính sách cho lĩnh vực nông nghiệp. “Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm trong quá trình tổ chức thực hiện để đảm bảo không dẫn đến rủi ro hay khó khăn khi triển khai, bởi hiện nay các doanh nghiệp cũng rất mong chờ được Quốc hội thông qua lần này” - Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng khẳng định./.