Khơi mở nguồn vốn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân
Phát triển kinh tế tư nhân góp phần xây dựng nền kinh tế quốc dân bền vững và năng động. Ảnh: Đức Thanh

Chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy hỗ trợ

Trao đổi với phóng viên, ông Đậu Anh Tuấn chia sẻ, ngay sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, Chính phủ đã nhanh chóng bắt tay vào triển khai bằng các hành động cụ thể. Điều này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ trong việc bảo đảm các chính sách của nghị quyết được thực hiện một cách hiệu quả, không chỉ dừng lại ở chủ trương.

Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, quyết tâm đã có nhưng việc thực hiện mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 68 cần có những giải pháp từ cơ chế cởi mở đến nguồn lực tài chính. Điểm đột phá đầu tiên của Nghị quyết 68 chính là việc xóa bỏ những định kiến, nghi kỵ vốn tồn tại lâu nay về vai trò của kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên, khu vực này được xác định là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, nghị quyết còn đề ra những chính sách rất cụ thể như miễn thuế trong 3 năm đầu, bỏ phí môn bài, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tham gia vào các lĩnh vực vốn là 'vùng cấm' chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước như công nghiệp quốc phòng, an ninh và cả tư pháp.

Mục tiêu tham vọng và mang tính đột phá của Nghị quyết 68 là đến năm 2030, Việt Nam sẽ đạt 2 triệu doanh nghiệp và đến năm 2045, con số này sẽ tăng lên 3 triệu. Đây không chỉ là một phép cộng đơn thuần về số lượng doanh nghiệp mà còn là minh chứng cho sự chuyển mình của nền kinh tế tư nhân, từ chỗ bị coi là yếu thế, phân tán, đến việc trở thành động lực chủ chốt của nền kinh tế quốc dân.

Việt Nam hiện có khoảng 960 nghìn doanh nghiệp, trong khi có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Nếu chính sách thuế, kế toán và thủ tục kinh doanh được điều chỉnh theo hướng thân thiện hơn, nhiều hộ sẽ mạnh dạn chuyển đổi. "Đây chính là điểm mấu chốt chuyển đổi từ kinh doanh cá thể sang mô hình doanh nghiệp chính thức không chỉ là câu chuyện về mặt thủ tục, mà là quá trình nâng tầm vai trò của kinh tế tư nhân trong hệ sinh thái kinh tế quốc dân" - ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.

Việc đạt được mục tiêu này sẽ tạo ra hàng triệu việc làm, tăng nguồn thu ngân sách và đưa nền kinh tế Việt Nam vào quỹ đạo tăng trưởng bền vững. Đó còn là cơ hội để doanh nghiệp Việt vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu, trở thành những mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất quốc tế.

Tuy nhiên, để Nghị quyết 68 thực sự trở thành động lực phát triển, điều quan trọng nhất vẫn là sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy hỗ trợ. "Khi tư duy quản lý thay đổi, kinh tế tư nhân sẽ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, góp phần xây dựng nền kinh tế quốc dân bền vững và năng động" - ông Đậu Anh Tuấn khẳng định.

Đột phá trong tiếp cận nguồn vốn

TS. Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội phân tích, một trong những rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) khó phát triển chính là sự bất bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực.

Đồng thuận ý kiến này, ông Đậu Anh Tuấn cũng chỉ rõ, doanh nghiệp FDI được bảo lãnh và có lãi suất thấp, trong khi doanh nghiệp tư nhân trong nước phải tự bơi, tự lo vốn với lãi suất cao.

Tạo cơ hội tiếp cận tài nguyên

Không chỉ có vốn, đất đai cũng là một điểm nghẽn cố hữu được gỡ bỏ tại Nghị quyết 68, đó là yêu cầu các địa phương khi quy hoạch khu, cụm công nghiệp cần dành quỹ đất riêng cho doanh nghiệp tư nhân - điều chưa từng được xác lập rõ ràng trong các chính sách trước đây.

Để khắc phục tình trạng này, các chuyên gia kinh tế đánh giá cao việc Nghị quyết 68 đưa ra nhóm giải pháp quan trọng nhằm cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, đáng chú ý nhất là chủ trương khuyến khích ngân hàng cho vay dựa trên dòng tiền thay vì tài sản thế chấp. Đây là một thay đổi mang tính thực chất, bởi hầu hết các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đều thiếu tài sản bảo đảm nhưng lại có khả năng vận hành linh hoạt và dòng tiền ổn định.

Cùng với đó là việc khuyến khích thành lập các quỹ hỗ trợ DNNVV, nhưng với cơ chế huy động theo hướng thị trường và mở hơn, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước. Các quỹ này phải có kênh huy động vốn mạnh hơn và vận hành theo cơ chế linh hoạt, nếu không sẽ không đủ lực để hỗ trợ khu vực tư nhân một cách hiệu quả.

TS. Mạc Quốc Anh cho rằng, DNNVV rất yếu về nguồn lực, không thể chỉ trông cậy vào nỗ lực đơn lẻ của doanh nghiệp, mà rất cần sự chung tay của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tài chính, hiệp hội ngành nghề, các trường đại học, viện nghiên cứu và cộng đồng xã hội. Các cơ quan nhà nước cần xây dựng chính sách đồng bộ và dài hạn, liên tục cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ tài chính; cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động thay đổi, nâng cao quản trị, tích cực chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; còn các tổ chức xã hội, trường viện nên mở rộng hoạt động tư vấn, đào tạo, kết nối.

TS. Mạc Quốc Anh đề xuất một số giải pháp gỡ khó về nguồn vốn đáng chú ý. Thứ nhất, nhà nước cần xây dựng mạng lưới quỹ bảo lãnh tín dụng một cách đồng bộ, chuyên nghiệp ở cả trung ương và địa phương. Quỹ này đóng vai trò “trung gian” bảo lãnh cho DNNVV khi vay vốn tại ngân hàng, giúp giảm đòi hỏi về tài sản thế chấp.

Thứ hai, khuyến khích các mô hình tài chính sáng tạo. TS. Mạc Quốc Anh cho rằng, phát triển các mô hình cho vay ngang hàng (P2P lending), quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, các chương trình huy động vốn cộng đồng (crowdfunding) cho DNNVV, sẽ giúp DNNVV có nhiều cơ hội tiếp cận vốn hơn.

Thứ ba, đẩy mạnh thị trường vốn cho DNNVV. Giải pháp này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán phù hợp (Ví dụ: Sàn dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với yêu cầu niêm yết đơn giản hơn). Tăng cường minh bạch thông tin để thu hút các quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ đầu tư mạo hiểm.

Tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên

Để khởi thông nguồn vốn cho doanh nghiệp tư nhân, theo tinh thần Nghị quyết 68, TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề xuất một số giải pháp đáng quan tâm, được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.

Theo đó, đối với UBND các tỉnh, thành phố cần tiếp tục phối hợp với ngành Ngân hàng tích cực triển khai Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để nắm bắt và xử lý kịp thời các khó khăn của người dân, doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng. Đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất, thủ tục giao dịch bảo đảm và các thủ tục hành chính liên quan nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong quan hệ với ngân hàng. Kiện toàn và thành lập quỹ bảo lãnh DNNVV tại các tỉnh thành phố.

Đối với Ngân hàng Nhà nước, TS. Nguyễn Quốc Hùng đề xuất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ 4.0 làm cơ sở để các tổ chức tín dụng đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng cường tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên, các ngành nghề tiềm năng có tính lan tỏa cao, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới hoạt động ở những nơi chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, tiếp tục triển khai các chương trình cho vay liên kết, chuỗi cung ứng; triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để cùng với chính quyền các địa phương trực tiếp tháo gỡ đồng bộ những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp.