Đây là kiến nghị được nêu trong báo cáo về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực”, được trình bày tại phiên họp chiều 26/9 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên hàng đầu khu vực
Theo báo cáo của Đoàn giám sát, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, quan trọng, tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
![]() |
Ông Lê Quang Huy, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và môi trường, Phó trưởng đoàn thường trực Đoàn giám sát, trình bày báo cáo giám sát. |
Công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN.
Các chỉ số về bảo vệ môi trường đã đóng góp quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam lên vị thế hàng đầu ở khu vực với vị trí 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2024), tăng 34 bậc so với năm 2016, xếp thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan và bỏ xa các nước còn lại trong khu vực. |
Các mục tiêu, chỉ tiêu về môi trường đã cơ bản đạt được theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, 3/5 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025. Cụ thể, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đến hết năm 2024 đạt 97,26%, vượt chỉ tiêu đến năm 2025 đạt 90%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đến tháng 4/2025 đạt 94,9%, vượt chỉ tiêu đến năm 2025 đạt 92%. Tỷ lệ che phủ rừng đến hết năm 2024 đạt 42,02%, vượt chỉ tiêu năm 2025 duy trì ổn định ở 42%.
Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường luôn được đảm bảo không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước, với xu hướng tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường cũng có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt trong lĩnh vực xử lý chất thải, có 122 cơ sở xử lý chất thải nguy hại, 8/14 dự án đốt rác phát điện đang hoạt động từ vốn tư nhân.
Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải tăng dần; các mô hình đô thị, nông thôn sinh thái được nhân rộng. Trong giai đoạn 2022 - 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với số tiền gần 97 tỷ đồng.
Các địa phương xử phạt hơn 14.800 vụ với số tiền 643 tỷ đồng. Kiểm toán nhà nước đã thực hiện 12 cuộc kiểm toán, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý môi trường tại khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhà máy nhiệt điện; trong quản lý và sử dụng kinh phí bảo vệ môi trường. Lực lượng Cảnh sát môi trường đã phát hiện, khởi tố mới hơn 2.300 vụ với gần 3.000 bị can.
Việc sử dụng, tận dụng chất thải thay thế tài nguyên, kinh tế tuần hoàn như đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất xi măng để phát điện, tái chế, tái sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu đã từng bước được chú trọng. Các địa phương đã và đang từng bước xây dựng hạ tầng xử lý chất thải với công nghệ tái chế, công nghệ xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt
Chất lượng môi trường nhờ vậy nhìn chung được cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất.
Công tác ứng phó biến đổi khí hậu cũng có bước tiến rõ rệt. Hành lang pháp lý về phát triển thị trường các-bon trong nước từng bước được hình thành, nhiều giải pháp ứng phó tại Đồng bằng sông Cửu Long đã được triển khai, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
![]() |
Phiên họp ngày 26/9 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. |
Loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường cản trở tăng trưởng kinh tế”
Tuy nhiên, báo cáo giám sát cũng chỉ ra nhiều hạn chế. Một số quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020 chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, còn chồng chéo với các luật khác; việc ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm, đặc biệt trong các lĩnh vực như thị trường các-bon, lộ trình phương tiện giao thông xanh, kinh tế tuần hoàn.
Việc tổ chức thực hiện Luật vẫn còn bất cập: quy hoạch môi trường quốc gia, vùng và tỉnh còn chậm; hạ tầng xử lý nước thải, chất thải rắn sinh hoạt còn thiếu đồng bộ; hình thức chôn lấp rác thải vẫn chiếm tỷ lệ cao, tới 62%. Tình trạng ô nhiễm không khí do bụi mịn ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục là vấn đề nhức nhối. Một số loại chất thải nguy hại, bao bì hóa chất vẫn chưa được thu gom, xử lý riêng biệt.
Đoàn Giám sát kiến nghị “kinh tế hóa môi trường”, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải; áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”. |
Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đáp ứng yêu cầu; chế tài xử phạt một số hành vi còn thấp, thiếu tính răn đe. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về môi trường ở nhiều nơi còn mang tính đối phó, chưa xử lý dứt điểm những “điểm nóng” gây ô nhiễm.
Để khắc phục, báo cáo giám sát đề xuất nhiều giải pháp mang tính đột phá. Trong đó nhấn mạnh việc đổi mới tư duy, coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường cản trở tăng trưởng kinh tế”.
Cùng với đó là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, hoàn thiện công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội, phát triển khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực môi trường.
Đoàn giám sát cũng kiến nghị Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan tăng cường trách nhiệm, giám sát chặt chẽ hơn nữa, đồng thời xử lý triệt để những tồn tại hiện nay. Trước mắt, cần tập trung các giải pháp cấp bách như sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2020, khắc phục ô nhiễm không khí, cải thiện chất lượng nước mặt ở các lưu vực sông lớn, và hình thành thị trường các-bon trong nước.