Điều 433 Bộ Luật dân sự quy định về phương thức thanh toán: “giá, phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận hoặc do người thứ ba xác định theo yêu cầu của các bên”.

Bên cạnh đó, tại điểm e khoản 2 Điều 73 Luật Quản lý thuế quy định: Hồ sơ hoàn thuế đối với hàng hóa XNK không thực hiện thanh toán qua ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế sau.

Cũng tại điểm a khoản 1 Điều 110 Luật Quản lý thuế quy định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được thực hiện trong trường hợp hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế, kiểm tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước.

Ngoài ra tại khoản 4 Điều 110 Luật Quản lý thuế cũng quy định về việc kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế quy định trình tự, thủ tục kiểm tra thuế: “Đối chiếu nội dung khai báo với sổ kế toán, chứng từ kề toán, báo cáo tài chính, kết quả phân tích rủi ro về thuế, dữ liệu thông tin kiểm tra tại trụ sở của cơ quan thuế, các tài liệu liên quan, tình trạng thực tế trong phạm vi, nội dung của quyết định kiểm tra thuế...”.

Khoản 5 Điều 36 Nghị định 134/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại điểm d khoản 20 Điều 1 Nghị định 18/2021/NĐ-CP quy định hồ sơ hoàn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất, kinh doanh nhưng đã nhập khẩu sản phẩm gồm 1 bản chụp chứng từ thanh toán hàng hóa XNK đối với trường hợp đã thanh toán.

Tổng cục Hải quan cũng cho biết, các quy định về chứng từ thanh toán cũng đã được quy định rõ tại điểm 4.1 phụ lục 7 ban hành kèm theo Thông tư 38/2015/TT-BTC. Theo đó, Tổng cục Hải quan đề nghị Cục Hải quan Bà Rịa - Vũng Tàu căn cứ các quy định, văn bản pháp luật hiện hành để xử lý theo đúng quy định./.