Từ những ngày đầu thành lập, cũng như trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, hoạt động của Bộ Tài chính - cơ quan đầu não hoạch định chính sách nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ kháng chiến và các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ như: Nha Ngân khố, Sở Đúc tiền, Nhà máy in tiền... đã có thời gian dài gắn bó với vùng đất Tuyên Quang - “Thủ đô khu giải phóng”.

Tại núi rừng Tuyên Quang, dưới sự đùm bọc, chở che của đồng bào các dân tộc nơi đây, nhiều quyết sách quan trọng được ra đời và có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng để huy động nguồn lực tài chính cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến ngày thắng lợi.

Giải quyết tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, Chính phủ Lâm thời đã giao Bộ Tài chính nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng một hệ thống chính sách tài chính theo quan điểm lấy dân làm gốc, dựa vào dân, phục vụ dân, vừa đảm bảo lợi ích chung của quốc gia dân tộc, vừa phù hợp quyền lợi, nguyện vọng của nhân dân.

Vừa mới được thành lập, Bộ Tài chính đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh những quyết sách lớn về công tác tài chính như: Chính sách bãi bỏ thuế thân, tổ chức “Quỹ Độc lập”, “Tuần lễ Vàng”, những sắc lệnh đầu tiên về in và phát hành đồng tiền Tài chính, phát hành công trái kháng chiến, các quyết định về tổ chức bộ máy. và rất nhiều quyết sách quan trọng khác.

Tuyên Quang nơi khởi nguồn của tài chính cách mạng Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng cùng Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến tại Đại hội thi đua yêu nước ngành Tài chính năm 1951 tại Việt Bắc.

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng, Sắc lệnh số 11 ngày 7/9/1945, một trong những sắc lệnh được ban hành sớm nhất của Chính phủ Lâm thời, đã bãi bỏ thuế thân, vì “thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần chính thể dân chủ cộng hòa”. Nhân dân rất vui mừng phấn khởi, càng thêm tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, trong bối cảnh những năm đầu của đất nước mới giành được độc lập, nước ta đã bị thực dân Pháp đô hộ gần một thế kỷ, đã bị bóc lột thậm tệ và rơi vào hoàn cảnh bần cùng hóa, đời sống kinh tế gần như là kiệt quệ. Chính phủ cách mạng tiếp quản ngân khố hầu như trống rỗng. Như Bộ trưởng Tài chính Phạm Văn Đồng trong thư gửi Quốc hội khóa I đã từng viết: “Nền tài chính của Chính phủ hiện thời rất khó khăn, quốc dân có lẽ ai cũng biết đến điều đó. Là bởi Chính phủ thực dân trước để lại cho chúng ta một gia tài không có gì cả. Bây giờ, chỉ còn sự đóng góp của đồng bào. Hơn nữa, chỉ có những nhà giàu có mới giúp được Chính phủ có một kết quả mong đợi để củng cố nền độc lập đang bắt đầu gây dựng”.

Ngày 4/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ lâm thời ký Quốc lệnh số 04 thành lập "Quỹ Độc lập". Quốc lệnh nêu rõ: "Lập tại Hà Nội và các tỉnh trong cả nước một quỹ thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập của quốc gia" và "Mọi việc quyên tiền, đồ vật và việc tổ chức sẽ đặt dưới quyền kiểm soát của Bộ Tài chính".

Tiếp sau đó, trong khuôn khổ "Quỹ Độc lập", Chính phủ đã đề ra việc tổ chức "Tuần lễ Vàng" trong thời gian từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân, nhất là tầng lớp thương nhân trong xã hội. Từ đó, đã tạo điều kiện cần thiết để giải quyết hậu quả của nạn đói, nạn lũ lụt, từng bước cải thiện đời sống nhân dân và góp phần bảo vệ nền độc lập tự do mới giành được.

Những kết quả thu được từ “Tuần lễ Vàng” cuối mùa thu Ất Dậu 1945 không chỉ có ý nghĩa to lớn về tài chính, mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Lượng tiền, vàng mà nhân dân cả nước ủng hộ cho “Quỹ Độc lập” là tiền đề tài chính quan trọng giúp Đảng và Chính quyền cách mạng tháo gỡ tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, tạo thế và lực để giải quyết từng bước các nhiệm vụ cách mạng tiếp theo. Đồng thời, đây còn là cơ sở để cuối tháng 1/1946 chúng ta phát hành đồng tiền Việt Nam, bước đầu xây dựng một nền tài chính, tiền tệ độc lập.

Như Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến - người kế nhiệm Bộ trưởng Phạm Văn Đồng sau này đánh giá: “Chính phủ đã rất đúng khi dựa vào sự đóng góp mang tính tự nguyện của những người dân có khả năng qua các phong trào như: Quỹ Độc lập, Tuần lễ Vàng và sau này khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là Quỹ Nuôi quân, Hũ Gạo kháng chiến. Những hoạt động này đã góp phần tích cực vào việc ổn định kinh tế, giữ vững chính quyền, chuẩn bị đảm bảo khâu hậu cần cho cuộc kháng chiến”.

Tháng 3/1946, đồng chí Lê Văn Hiến tiếp nhận công việc điều hành Bộ Tài chính, một trong những việc đầu tiên được Bộ trưởng Lê Văn Hiến coi trọng thúc đẩy để hoàn tất sớm nhất là Sắc lệnh số 75 quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của ngành Tài chính và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 29/5/1946. Với sắc lệnh này, bộ máy Bộ Tài chính dần đi vào hoàn thiện, tạo tiền đề triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Lên chiến khu Việt Bắc

Toàn quốc kháng chiến bùng nổ cuối tháng 12/1946, Bộ Tài chính cùng các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh sơ tán lên chiến khu Việt Bắc. Thôn Cầu Bì, xã Tú Thịnh - huyện Sơn Dương - tỉnh Tuyên Quang là địa điểm đặt Trụ sở Bộ Tài chính suốt từ năm 1947 - 1950. Tại đây, những chính sách lớn đã ra đời như: Chính sách thuế và dự trữ muối, phát hành các loại công trái kháng chiến. Đây cũng là nơi ở và làm việc của Bộ trưởng Lê Văn Hiến. Chính tại khu tăng gia của Bộ Tài chính ở xã Tú Thịnh, trong Hội nghị giao ước thi đua, Bộ trưởng Lê Văn Hiến đã tặng Bác Hồ quả bí do cán bộ tài chính trồng, cũng là ngụ ý hóm hỉnh của Bộ trưởng báo cáo với Bác Hồ về tình hình tài chính rất khó khăn lúc đó.

Tuyên Quang nơi khởi nguồn của tài chính cách mạng Việt Nam
Bộ trưởng Lê Văn Hiến cùng các đại biểu tham dự Hội nghị Tài chính Toàn quốc lần thứ 2 tại Chiến khu Việt Bắc. Ảnh tư liệu.

Cũng trong thời gian này, theo chỉ đạo của Bộ Tài chính, cuối năm 1947, cán bộ nhân viên Văn phòng Bộ đã được lệnh sơ tán lên Chiến khu Việt Bắc, được chia làm 2 bộ phận: một bộ phận đóng tại thôn Cầu Bì, xã Tú Thịnh do Bộ trưởng Lê Văn Hiến trực tiếp phụ trách và một bộ phận đóng tại địa điểm thôn Trấn Kiêng, xã Phú Lương, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang do Thứ trưởng Trịnh Văn Bính phụ trách. Đây được xem như cơ sở 2 của Văn phòng Bộ trong thời kỳ này.

Sống giữa bản làng, với đồng bào luôn hết lòng vì cách mạng, cán bộ và nhân
viên Văn phòng Bộ đã thực hiện những nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, trong điều kiện đầy khó khăn, thử thách. Đây cũng là nơi trực tiếp thu mua, dự trữ muối, lương thực phục vụ kháng chiến.

Sau Chiến dịch Biên giới năm 1950, cục diện chính trị - quân sự đã có nhiều thay đổi có lợi cho cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng, Chính phủ cùng nhiều bộ, ban, ngành đã quyết định di chuyển lên Chiêm Hóa - Tuyên Quang để đảm bảo an toàn, bí mật và tổ chức thành công nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, như: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng, Đại hội chiễn sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh Liên - Việt.

Bộ Tài chính cũng đã di chuyển đến ở và làm việc tại thôn Nà Làng, xã Phú Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ở và làm việc từ tháng 9/1950. Thời gian này, Bộ Tài chính đã hoàn thành một khối lượng công việc quan trọng như chuẩn bị tài liệu cho cuộc tổng phản công, báo cáo tài chính năm 1950, lập đề án và lên kế hoạch chuẩn bị cho việc phát hành công trái năm 1951...

Sau đó, Bộ Tài chính chuyển về ở, làm việc tại Làng Cảy, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương. Đây là địa điểm chứng kiến những hoạt động của ngành Tài chính phục vụ phá vây, mở thông biên giới Việt - Trung để tiếp nhận những chuyến hàng viện trợ quốc tế đầu tiên của các nước XhCN anh em.

Cùng với cơ quan đầu não của Bộ Tài chính, sau sự kiện nhà máy in tiền tại đồn điền Chi Nê (huyện Lạc Thủy, Hòa Bình) bị phát hiện và ném bom, cán bộ công nhân cơ quan Ấn loát được lệnh di chuyển nhà máy ngược lên núi rừng Việt Bắc.

Trong hoàn cảnh máy bay Pháp thường xuyên oanh tạc, cán bộ nhà máy in tiền vận chuyển các thiết bị máy móc vượt hàng trăm km đường bộ, đường sông, đường gòong ròng rã hàng tháng trời từ Hòa Bình lên Việt Bắc khẩn trương đưa vào hoạt động sản xuất in tiền phục vụ kháng chiến. Trên đường vận chuyển máy in tiền lên Việt Bắc, đồng chí Phạm Văn Khang - Tổ trưởng Tổ sản xuất Sở Đúc tiền Bộ Tài chính cùng các đồng đội khác đã hi sinh trên dòng sông Lô thuộc địa bàn tỉnh Tuyên Quang khi bị máy bay Pháp truy đuổi.

Cùng với nhà máy in tiền Bản Thi, cuối năm 1947, chúng ta đã cho xây dựng Nhà máy in tiền Khánh Thi tại xã Hùng Mỹ, huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Những đồng bạc Tài chính - giấy bạc Cụ Hồ được sản xuất tại đây với các mệnh giá từ 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 500 đồng... đã có mặt ở khắp các vùng kháng chiến, vùng địch tạm chiếm, góp phần lưu thông tiền tệ quốc gia và trở thành vũ khí quan trọng đấu tranh với thực dân Pháp trên mặt trận kinh tế - tài chính.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử “lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu”, đến trung tuần tháng 10/1954, trong không khí hòa bình, Bộ Tài chính cùng nhiều bộ, ban, ngành khác trở về tiếp quản Thủ đô, kết thúc thắng lợi 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, mở ra một trang sử mới cho lịch sử nền Tài chính Cách mạng Việt Nam.

Hành trình trở về nguồn cội

Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử đã chọn Tuyên Quang làm "Thủ đô kháng chiến", “Thủ đô khu giải phóng” của dân tộc. Với địa thế rừng núi hiểm trở và lòng dân kiên trung, Tuyên Quang đã che chở, đùm bọc cho Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Là một trong số các bộ, ngành sơ tán lên núi rừng Tuyên Quang trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ từ Tú Thịnh, Minh Thanh, Phú Lương, Hùng Mỹ, Bình Nhân... ở đâu các cơ quan của Bộ Tài chính đều được đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đùm bọc, che chở, để rồi từ đó, một nền tài chính cách mạng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thời gian đã lùi xa, những tình cảm sâu nặng, thể hiện tình quân dân giữa cán bộ ngành Tài chính với nhân dân địa phương mãi là những kỷ niệm cao đẹp không bao giờ nhạt phai trong tâm trí của những người làm công tác tài chính trải qua bao thế hệ.

Khu tưởng niệm Liệt sỹ Phạm Văn Khang và đồng đội được ngành Tài chính xây dựng tại huyện Yên Sơn cùng các công trình tưởng niệm khác, các công trình phúc lợi xã hội như: trường học, đường xá, cầu cống. phục vụ dân sinh như một sự tri ân của thế hệ đi sau với những người đã ngã xuống cho nền tài chính cách mạng, như nhắc nhở những thế hệ sau về truyền thống vẻ vang và rất đỗi tự hào của lớp lớp những thế hệ đi trước.