Các diễn giả bàn về cách thức tối ưu hóa EVFTA cho DN nhôm Việt Nam.
Với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), các doanh nghiệp (DN) nhôm Việt sẽ có nhiều cơ hội thay đổi thị trường xuất khẩu. Ngày 23/7, tại Hà Nội, Văn phòng Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân của Chính phủ và Hiệp hội Nhôm thanh định hình Việt Nam tổ chức hội thảo “EVFTA - Cơ hội và thách thức đối với các DN nhôm Việt Nam”, để giúp các DN tận dụng tốt hơn cơ hội từ EVFTA.
Tận dụng cơ hội từ quy tắc “De Minimis”
Theo thống kê, hiện thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành nhôm Việt Nam là ASEAN, chiếm tới 60% lượng nhôm xuất khẩu, tiếp đó là Hoa Kỳ chiếm 11%, Hàn Quốc khoảng 3% và thị trường châu Âu chỉ chiếm 5% lượng xuất khẩu. Điều đó cho thấy, dư địa xuất khẩu của ngành nhôm sang châu Âu, nhất là khi EVFTA được phê chuẩn và có hiệu lực chính thức là rất lớn.
Phát biểu tại sự kiện, chuyên gia kinh tế Bùi Kim Thùy - đại diện Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN tại Việt Nam cho biết, đối với một hiệp định thương mại (FTA), chương về thương mại hàng hóa là quan trọng nhất, bao gồm 2 phần về cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ. Hai quy tắc này luôn luôn đi song hành với nhau. Hàng hóa bắt buộc phải đáp ứng quy tắc xuất xứ được quy định thiết kế riêng cho từng mã HS (mã sản phẩm) riêng biệt thì mới được hưởng thuế ưu đãi. Nếu hàng hóa không đáp ứng được quy tắc xuất xứ thì sẽ phải chịu mức thuế suất thường.
Bà Thùy cho biết, không chỉ đối với các FTA mà Việt Nam đã ký kết mà đối với hầu hết các FTA trên thế giới, chuỗi cung ứng toàn cầu của ngành nhôm đã được định hình sẵn và không yêu cầu xuất xứ đầu vào trong phạm vi của 1 FTA. Tức là có thể nhập khẩu yếu tố đầu vào từ bất cứ đâu, chỉ cần chứng minh được đã được “chuyển đổi cơ bản” mã HS ở cấp độ 4 số (CTH - ví dụ đối với ngành nhôm trong EVFTA là từ 7601 thành 7604). Mặc dù không phải là một quy tắc linh hoạt nhưng dù có 1 tiêu chí CTH thì DN Việt vẫn có thể đáp ứng được. Do đó, theo bà Thùy, quy tắc xuất xứ không phải là vấn đề lớn đối với ngành nhôm khi xuất khẩu, nhập khẩu vì về cơ bản chỉ cần chứng minh mã HS ở cấp độ 4 số, đã có sự chuyển đổi từ yếu tố đầu vào thành yếu tố đầu ra.
Bà Thùy cũng lưu ý các DN cần nắm bắt và tận dụng cơ hội từ quy tắc “De Minimis” (quy tắc không đáng kể - PV) trong chương 76 của EVFTA. Đây là quy tắc rất linh hoạt nếu DN hiểu và vận dụng được thì có lợi vô cùng trong các ngành, không riêng chỉ ngành nhôm. Đây là quy tắc cho phép 1 hàm lượng, số lượng nhất định các yếu tố đầu vào mặc dù không đáp ứng tiêu chí xuất xứ (ở đây là tiêu chí CTH) nhưng thành phẩm cuối cùng vẫn được coi là có xuất xứ, có giấy chứng nhận xuất xứ hoặc tự chứng nhận xuất xứ khi xuất khẩu vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan đặc biệt. Khi khảo sát, rất nhiều DN không biết cách tận dụng quy tắc này. Ngưỡng De Minimis thông thường tại các hiệp định là 10%, nhưng có hiệp định cho lên tới 13 -15% và ngưỡng của ngành nhôm quy định trong EVFTA là 10%.
Lưu ý cải thiện yếu tố phi kinh tế
Thông tin thêm về điều này, ông Nguyễn Hải Minh - Phó Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam cho biết, theo EVFTA, mức thuế suất đối với các sản phẩm nhôm sẽ giảm về mức 0% trong vòng 8 năm khi hiệp định có hiệu lực. Tuy nhiên, việc có được hưởng mức thuế suất ưu đãi này hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc các DN xuất khẩu nhôm của Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ. Vì vậy, các DN phải hiểu và nắm rõ các nội dung về quy tắc xuất xứ của hiệp định để tận dụng được ưu đãi.
Ông Minh cũng đưa ra một thông tin rất hữu ích là hiện nay, cả châu Âu đã tự sản xuất được 50% nhu cầu nhôm, 50% còn lại là nhập khẩu và nhu cầu này cũng có xu hướng giảm nhẹ trong năm vừa qua. Vì vậy, cũng cần tìm hiểu tầm nhìn của Hiệp hội nhôm châu Âu, xem định hướng của họ trong tương lai để đưa ra định hướng sản xuất.
Cũng theo ông Minh, bên cạnh yếu tố kinh tế, khi ký EVFTA, các nước châu Âu rất coi trọng yếu tố phi kinh tế như về môi trường, về người lao động… Vì vậy, ngoài đáp ứng các quy tắc xuất xứ, các DN Việt phải đáp ứng các tiêu chí về môi trường, về lao động… khi sản xuất, bởi có thể mẫu mã sản phẩm tốt, chất lượng tốt nhưng nếu không đảm bảo các yếu tố về môi trường hay người lao động trong quá trình sản xuất cũng sẽ không đáp ứng được nhu cầu của nước nhập khẩu.
Bàn về cách thức tối ưu hóa EVFTA cho DN nhôm Việt Nam, chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành cho rằng, tuy dư địa xuất khẩu sang EU còn nhiều nhưng câu chuyện mà các DN nhôm Việt cần đáp ứng không phải chỉ chất lượng sản phẩm mà còn là hàng rào phi kinh tế. Ví dụ như quy trình sản xuất, vấn đề sử dụng năng lượng hay tác động tới môi trường như thế nào…
Trước ý kiến về cần sự hỗ trợ của Nhà nước hơn nữa để ngành nhôm nâng cao năng lực xuất khẩu, ông Thành nhấn mạnh: “Nhà nước chỉ hỗ trợ cho người thắng cuộc chứ không chọn người thắng cuộc”. Vì vậy, vấn đề nằm ở chỗ tự lực của các DN. Các DN nhôm cần đổi mới công nghệ, học hỏi, vươn lên để đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Thảo Miên