Cân nhắc nhiều yếu tố khi nới rộng bậc thuế thu nhập cá nhân
Hiện biểu thuế lũy tiến từng phần cho thu nhập từ tiền công, tiền lương vẫn còn khá hẹp, chưa khuyến khích người lao động gia tăng thu nhập. Ảnh tư liệu

Số thu góp phần quan trọng cho an sinh

Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện hành có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009, sau đó đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Hơn 16 năm thực hiện, chính sách thuế TNCN đã thể hiện và phát huy được vai trò là công cụ quan trọng trong việc điều tiết, phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, từng bước quản lý thu nhập của các cá nhân, đồng thời đóng góp nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.

Số thu về thuế TNCN có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết từ những người có thu nhập cao hơn mức thu nhập chung của xã hội để ngân sách nhà nước bổ sung thêm khoản chi cho các hoạt động an sinh. Năm 2008, số thuế này chỉ đạt khoảng 63 tỷ đồng. Đến năm 2024, tổng thu từ thuế TNCN lên đến gần 190.000 tỷ đồng, chiếm gần 12% tổng số thu nội địa, góp phần đáng kể vào kết quả xóa đói, giảm nghèo.

Bên cạnh việc đạt nhiều kết quả quan trọng, theo thời gian, một số tồn tại, hạn chế trong áp dụng Luật này cũng đã xuất hiện, nhất là các quy định về thuế thu nhập từ tiền công, tiền lương.

Theo phân tích của PGS.TS. Phan Hữu Nghị - Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân, thu nhập từ tiền lương, tiền công hiện nay đóng vai trò chủ đạo trong tổng thu từ thuế TNCN. Tuy nhiên, quy định hiện hành trong cách khai và tính thuế đối với thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau đang gây ra sự bất công bằng giữa các đối tượng nộp thuế.

Đơn cử, nếu một cá nhân có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, thì tổng thu nhập này sẽ được tính gộp để xác định mức thuế phải nộp. Tuy nhiên, có một điểm bất cập: Khi thu nhập từ các nguồn bổ sung không vượt quá 120 triệu đồng/năm thì đơn vị chi trả thực hiện khấu trừ 10% trước khi thanh toán, đồng thời người lao động có thể ủy quyền cho đơn vị chi trả thu nhập chính quyết toán thuế thay mình.

Điều này dẫn đến sự không công bằng trong hệ thống thuế. Bởi nếu một cá nhân có thu nhập chính đã chịu thuế suất 30% thì đáng lẽ thu nhập từ các nguồn khác cũng nên bị đánh thuế tương ứng, nhưng với quy định hiện tại, những khoản thu nhập phụ dưới 120 triệu

đồng/năm chỉ bị khấu trừ 10%, thấp hơn đáng kể so với mức thuế suất thực tế mà người nộp thuế lẽ ra phải chịu.

Trong khi đó, một người chỉ có một nguồn thu nhập duy nhất nhưng nằm trong khung thuế cao vẫn phải chịu thuế suất đầy đủ. Điều này tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người có cùng mức thu nhập nhưng đến từ các nguồn khác nhau.

Về mức thu, hiện nay, Việt Nam đang áp dụng Biểu thuế lũy tiến từng phần cho thu nhập từ tiền công, tiền lương với 7 mức thuế: 5%, 10%, 15%, 20%, 25%, 30% và 35%. Mục đích của việc áp dụng thuế suất lũy tiến này là để đảm bảo sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập, tức là ai có thu nhập cao hơn thì sẽ phải đóng thuế nhiều hơn.

Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, các bước thuế này đang khá hẹp. Thông thường, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN không chênh lệch quá nhiều, nhưng theo luật hiện hành, mức thuế thu nhập doanh nghiệp cơ bản là 20% và còn có các mức ưu đãi như 5%, 7%, 10%, 15%... Trong khi đó, thuế TNCN lại cao nhất lên tới 35%. Bên cạnh đó cũng không có chính sách ưu đãi nào cho người làm việc trong các ngành nghề cần khuyến khích, giống như cách mà thuế thu nhập doanh nghiệp có ưu đãi cho các lĩnh vực đầu tư.

Giãn khoảng cách tạo ra sự công bằng hơn

Trong dự kiến của mình, Bộ Tài chính đã đưa ra phương án điều chỉnh biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công theo hướng cắt giảm số bậc thuế của biểu thuế hiện nay từ 7 bậc xuống mức phù hợp, cùng với đó, xem xét nới rộng khoảng cách thu nhập trong các bậc thuế, đảm bảo điều tiết ở mức cao hơn vào những người có thu nhập ở bậc thuế cao.

Dự án sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào tháng 10/2025 và thông qua vào tháng 5/2026.

Việc đưa ra phương án cụ thể về số bậc và mức thuế suất tương ứng cần được nghiên cứu dựa trên các yếu tố về thu nhập và mức sống của người dân, bối cảnh xã hội cũng như tham khảo kinh nghiệm các nước có điều kiện tương đồng, đảm bảo số lượng bậc thuế cần cân nhắc để tránh quá nhiều bậc làm hệ thống phức tạp, tăng chi phí tuân thủ hoặc quá ít bậc làm giảm tính công bằng và giảm khả năng điều chỉnh thuế phù hợp với mức thu nhập thực tế.

Kinh nghiệm một số quốc gia cho thấy, xu hướng cắt giảm số bậc thuế suất trong Biểu thuế lũy tiến từng phần, như: Indonesia, Philippines hiện nay áp dụng biểu thuế 5 bậc, Malaysia cũng cắt giảm từ 11 bậc thuế suất (năm 2021) xuống 9 bậc thuế suất (2024)…

Bày tỏ đồng tình với phương án này, PGS.TS. Phan Hữu Nghị cho rằng, việc giãn khoảng cách giữa các bậc thuế theo hệ số hợp lý (ví dụ hệ số 2) sẽ giúp hệ thống thuế trở nên ổn định, độ mở cao, tạo động lực tăng thu nhập, tránh tình trạng người lao động có thu nhập trung bình vẫn phải chịu thuế suất cao một cách bất hợp lý. Đồng thời, số lượng bậc thuế có thể giảm từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, giúp đơn giản hóa hệ thống tính thuế mà vẫn đảm bảo nguồn thu hợp lý cho ngân sách nhà nước. Điều này không chỉ tạo ra sự công bằng hơn giữa các nhóm thu nhập mà còn khuyến khích người lao động gia tăng thu nhập mà không lo bị đánh thuế quá mức.

Cần nâng mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với các chỉ số kinh tế thực tiễn

Tham gia vào việc sửa đổi Luật Thuế TNCN lần này, có nhiều ý kiến đề nghị điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh để đảm bảo mức sống cho người nộp thuế và người phụ thuộc, sau đó mới nộp thuế TNCN.

Bình luận về đề nghị này, bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội Tư vấn thuế cho rằng, nên lý giải rõ hơn về mức giảm trừ gia cảnh, về xác định mức thu nhập làm căn cứ giảm trừ của người phụ thuộc, người nộp thuế để có mức điều chỉnh phù hợp và nâng cao tính khả thi hơn. Việc nâng mức giảm trừ gia cảnh để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, chỉ số giá cả trong từng giai đoạn cụ thể cũng như xu hướng phát triển tương lai, nhằm giảm mức điều tiết thuế cho người nộp thuế; mà đặc biệt là người nộp thuế có mức thu nhập không cao là cần thiết.

Tuy nhiên cần hiểu rõ, mức giảm trừ gia cảnh không phải là mức nhằm đảm bảo đời sống thực tế cho người nộp thuế, mà thông thường được tính trên yếu tố thu nhập GDP bình quân đầu người, mức lương tối thiểu, nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống… phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử và đặc điểm của các quốc gia, vùng lãnh thổ.

Ở một số nước tiên tiến, mức giảm trừ gia cảnh được tính giảm trừ trên số chi phí thực chi có hóa đơn chứng từ về y tế, giáo dục… Trong trường hợp này, thu nhập chịu thuế được tính cho đồng thu nhập đầu tiên không quy định ngưỡng giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, người phụ thuộc.

Theo vị chuyên gia này, thu nhập và chi phí giáo dục, y tế ở Việt Nam rất chênh lệch. Học phí trường công lập, dân lập, trường quốc tế, du học nước ngoài; khám chữa bệnh cũng tương tự… Theo đó, vấn đề giảm trừ gia cảnh theo thực chi cũng gặp khó khăn, nên nghiêng về phương án giảm trừ gia cảnh theo cơ chế tính cho cá nhân có thu nhập và người phụ thuộc, không phân biệt vùng miền, ngành nghề của cá nhân tạo nên thu nhập.

Để phù hợp với thực tiễn của nước ta, cũng cần nghiên cứu điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế, người phụ thuộc phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân của xã hội, chế độ tiền lương thay đổi theo quy định của Chính phủ…