Cố gắng “phi thường” trong kháng chiến chống Pháp
Ngược dòng thời gian, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, công cuộc xây dựng chế độ mới và chống giặc ngoại xâm đòi hỏi sự đoàn kết và nỗ lực lớn của toàn dân tộc, đặc biệt là sự tham gia góp sức của tầng lớp trí thức cùng các nhà khoa học, trong đó có tập thể y, bác sĩ. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), đội ngũ y, bác sĩ là những chiến sĩ chiến đấu thầm lặng để chống lại bệnh tật, đem lại sức khỏe cho chiến sĩ, nhân dân, luôn kề vai sát cánh cùng đồng bào cả nước chiến đấu chống giặc ngoại xâm để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Tháng 10/1945, Trường Đại học Y Dược khoa của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoạt động trở lại sau những năm tháng tham gia phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn dân tộc. Đây là sự cố gắng “phi thường” của thầy và trò ngành Y lúc đó. Trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến, ở các tuyến đầu hoặc ở hậu phương, đội ngũ bác sĩ vẫn không quên nhiệm vụ đào tạo tầng lớp kế cận.
Trong công tác đào tạo cán bộ, Bộ Y tế đã quan tâm mở các trường, lớp nhằm tăng cường đào tạo và phát triển đội ngũ y, bác sĩ. Các y, bác sĩ đã tích cực, chủ động tìm tòi, học hỏi và truyền đạt lại kinh nghiệm cho nhau. Có thể kể tới những tấm gương điển hình như: Bác sĩ Tôn Thất Tùng – người thực hiện chương trình đào tạo cán bộ y sĩ gửi ra mặt trận; bác sỹ Hồ Đắc Di có đóng góp không nhỏ trong việc cải tiến phương pháp giảng dạy. Bên cạnh đó, là sự đóng góp lớn lao của các giáo sư, bác sĩ đầy tâm huyết: Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Đặng Văn Chung...
Trong tình hình cam go của cuộc chiến, việc dạy và học, cứu chữa thương binh của thầy và trò ngành y vẫn diễn ra đồng thời, tích cực. Với truyền thống lớp trên dìu dắt lớp dưới, những sinh viên mới đã nhanh chóng tiếp thu, thích nghi với công việc thời chiến và chăm lo y tế địa phương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bệnh viện Quân y Hải Phòng ( 5/1957). Ảnh TTXVN |
Khi kháng chiến bùng nổ, một số y, bác sĩ, sinh viên trường y đi theo các đoàn Nam tiến. Số khác tham gia cứu thương ở Hà Nội, sau đó tới khắp các chiến trường. Các trạm phẫu thuật lưu động, bệnh viện được thành lập trong thời gian này với các cán bộ chủ lực từ Đại học Y dược và Bệnh viện Phủ Doãn. Trạm phẫu thuật A do bác sĩ Tôn Thất Tùng và bác sĩ Phạm Hữu Trí phụ trách; Trạm phẫu thuật B do thầy Nguyễn Hữu phụ trách, đóng tại Kim Lũ, Ngọc Bài (Sơn Tây. Ở phía Nam Hà Nội, có trạm phẫu thuật do bác sĩ Vũ Đình Tụng và sinh viên Vũ Đình Tuân phụ trách, ban đầu đặt tại Bệnh viện Bạch Mai, sau đó rút xuống Văn Điển. Tuyến sau có trạm phẫu thuật tại Cầu Phùng (Đan Phượng) do bác sĩ Trần Hữu Tước phụ trách.
Các trạm làm việc rất căng thẳng, vất vả do số thương binh và nạn nhân chiến tranh được chuyển về rất đông, nhưng trạm nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Còn tại miền Bắc, bệnh viện hậu phương được thành lập tại Vân Đình, Hà Tây cũ nay là Hà Nội do thầy Hồ Đắc Di và thầy Tôn Thất Tùng phụ trách. Đây là một cơ sở lớn, trang thiết bị được mang theo từ Bệnh viện Phủ Doãn, sinh viên y khoa và nhân viên kỹ thuật được tập trung đông đảo. Ngoài những sinh viên được quy tụ từ các trạm A, B, bệnh viện còn có bác sĩ Đặng Văn Chung...
Tại miền Trung, Bệnh viện Tuy Hòa cũng được thành lập, ngày 7/2/1946, đoàn phẫu thuật đầu tiên vào tăng viện cho chiến trường miền Nam do bác sĩ Hoàng Đình Cầu phụ trách. Đoàn cùng đi với đoàn của bác sĩ Vũ Văn Cẩn, có nhiệm vụ kiểm tra công tác quân y từ Huế trở vào. Tuy nhiên, đoàn vào đến Phú Yên thì phải dừng lại (vì Pháp đã đánh ra đến đây) và phối hợp với dân y thành lập Bệnh viện Tuy Hòa. Bệnh viện có khoảng 300 giường để phục vụ thương, bệnh binh từ Khánh Hòa gửi ra. Kháng chiến bùng nổ, mọi hoạt động diễn ra gấp rút, khẩn trương. Bên cạnh nhiệm vụ cứu chữa thương binh, các y, bác sĩ còn phải miệt mài nghiên cứu bào chế ra các loại thuốc trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn.
Y sĩ Nguyễn Dược Khôi - Cán bộ của Viện Vi trùng học Trung Bộ là một trong những tấm gương lao động trí óc điển hình. Viện Vi trùng dùng dạ dày lợn và axít clohydric chế peptone Martin làm chất dưỡng trung. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh rất khó để mua dạ dày lợn, y sĩ Nguyễn Dược Khôi đã dùng mủ đu đủ để nấu thịt bò thành peptone, công dụng của nó không khác peptone Martin mà lại tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, y sĩ còn dùng mật mía để cất rượu cồn thay cho ngô hoặc gạo, sáng kiến cải tiến kỹ thuật sấy đậu, chuyển từ máy đốt bằng dầu sang máy đốt bằng củi. Nhờ sự chăm chỉ, tìm tòi nghiên cứu, y sĩ Nguyễn Dược Khôi đã có những sáng kiến hữu ích, giúp tiết kiệm tiền bạc, thời gian và công sức cho Nhân dân.
Bên cạnh đó, sáng kiến chế thuốc cam thế aspirin của dược tá Nguyễn Đức từ những nguyên liệu trong nước (bạch chì, sắn dây, dưa liên), sau đó chế hòa thành viên, đã được nhiều người dùng rất công hiệu mà giá thành rẻ. Thuốc này rất công hiệu, giá thành rẻ nên nhanh chóng được phân phối ở các bệnh viện, y tế dân công và tủ thuốc các liên khu.
Đặc biệt, Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã điều chế thành công bột Streptomycin – Một chất kháng sinh dùng để chữa các vết thương nặng, dùng đậu tương cho phân hóa nấm thành một loại thuốc tiêm giữ sức cho anh em thương binh khi mổ, lấy kẹo mạch nha thay glucô để làm xitơrinin. Đặc biệt, việc sản xuất được “nước lọc Penicillin” của bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã giúp 80% thương binh có thể trở về đơn vị chiến đấu mà không bị cưa chân tay.
Bác sỹ Tôn Thất Tùng đã tìm ra cách chữa bệnh dò xương, kết quả đạt tới 90%. Không những thế, ông còn tìm được phương thuốc làm tê mà không liệt bệnh nhân; dùng phương pháp ngủ để chữa bệnh thần kinh; tiến hành mổ hoàn toàn vô trùng, tỷ lệ tử vong không tới 1%. Bác sĩ Tôn Thất Tùng là người đầu tiên trên thế giới có công trình nghiên cứu về phương pháp cắt gan quy phạm mà sau này được các học giả trên thế giới công nhận là phương pháp kinh điển.
Bác sĩ Nguyễn Văn Tấn, phân viện trưởng K43 thuộc Bộ Tư lệnh liên khu IV áp dụng kỹ thuật mổ xẻ, cưa cắt ở những chỗ trọng yếu như óc, phổi, sọ, cải tiến phương pháp cầm máu và cứu sống nhiều chiến sĩ bị thương nặng. Bác sĩ Hoàng Tích Mịnh cùng 20 cán bộ Viện Vi trùng học Bắc Bộ đã sản xuất được các vắcxin ngừa thủy đậu, tả, thương hàn phục vụ công tác phòng bệnh cho Nhân dân và bộ đội vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Dưới sự quan tâm, lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Chính phủ cùng với đường lối kháng chiến kiến quốc đúng đắn, cán bộ ngành y tế đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực đưa công tác y tế của đất nước tiến dần vào con đường phục vụ quảng đại nhân dân; chú trọng đến việc phòng bệnh là chính yếu, chữa bệnh là thứ yếu trên cơ sở đào tạo đội ngũ kế cận, phát triển cơ sở y tế nông thôn, đẩy mạnh công tác y tế dân công,... Cùng với đó, cán bộ chủ lực của ngành Y có tầm nhìn xa trong việc bố trí các tài năng để xây dựng cơ sở cách mạng ngay trong lòng địch, từng bước tiến tới thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc.
Một trạm xá quân y thời kháng chiến chống Mỹ. |
Thành lập Ban Dân y Trung ương cục miền Nam gắn liền với cuộc chiến tranh chống Mỹ
Tiếp đó, trong bối cảnh đất nước bị chia cắt, miền Nam thực hiện công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, miền Bắc vừa làm hậu phương vững chắc, vừa chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, đội ngũ cán bộ Bộ Y tế cũng có những đóng góp xứng đáng góp phần vào thắng lợi chung của toàn dân tộc, góp phần thống nhất non sông, đưa giang sơn thu về một mối.
Sau khi, Trung ương cục miền Nam lần lượt thành lập 24 đơn vị đảm nhiệm từng nhiệm vụ khác nhau, trong đó có Ban Dân y Trung ương cục miền Nam. Sự ra đời của Ban Dân Y Trung ương cục miền Nam gắn liền với cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vô cùng khó khăn, gian khổ, căn cứ đóng quân không ổn định phải di chuyển liên tục do bị càn quét, ném bom, thuốc không đủ dùng, thiếu trang thiết bị y tế, gạo không đủ cho thương binh, bệnh binh ăn..., nhưng với tinh thần vì bệnh nhân và chiến sĩ thân yêu, cán bộ y tế quân dân y đã vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, ác liệt nhất để chăm sóc thương binh sớm mau lành bệnh, trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu và có biết bao lớp lớp thanh niên yêu nước ở mọi miền đất nước đã tập hợp về miền Nam thực thi nhiệm vụ cao cả góp sức trẻ của mình cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Nhiều thành tựu đã được thực hiện trong giai đoạn đầy khó khăn gian khổ đó như sản xuất các loại thuốc cảm cúm thông thường, sản xuất Subtilis thuốc trị đường ruột, vaccin tả để cung cấp cho các bệnh viện, quân đội và cơ quan vùng căn cứ, tổ chức bắt muỗi ban đêm để làm nghiên cứu về phòng chống sốt rét… quản lý kho thuốc dù có di chuyển nhưng không để thuốc bị bể, bị hư, nhiều lần bị ném bom nhưng không trúng kho thuốc, tiếp nhận dụng cụ và thuốc được chi viện từ miền Bắc vào an toàn...
Sự nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn chống Mỹ đã góp phần quan trọng trong thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc, góp phần đưa Giang Sơn thu về một mối, cả dân tộc tiến lên xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.