Nhiều thách thức tăng trưởng kinh tế thời gian tới
Tham luận tại hội thảo “Huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính công nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế” do Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) tổ chức chiều ngày 19/9, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Quốc tế và chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính cho biết, thế giới bước sang giai đoạn mới 2025 - 2030 với những biến động phức tạp, đặc biệt sau chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, đại dịch Covid-19, xung đột tại Ukraine và gần đây nhất là căng thẳng thương mại giữa Mỹ và một loạt nước, trong đó có Việt Nam.
Đồng thời, cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy sự ra đời của các hình thái kinh doanh mới, mô hình tăng trưởng mới như mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế chia sẻ cũng dẫn đến những thay đổi quan trọng trên thị trường lao động, giúp tăng năng suất lao động, nhưng cũng đòi hỏi việc tái cấu trúc lực lượng lao động của mỗi quốc gia. Mặt khác, tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ trên thế giới cũng hàm chứa nhiều rủi ro với các nước kém và đang phát triển, nơi có đầu tư ít hơn vào khoa học công nghệ làm gia tăng khoảng cách…
![]() |
Các chuyên gia tham luận tại Hội thảo Khoa học “Huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính công nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế”. |
Trước bối cảnh mới trên, theo TS. Trần Toàn Thắng, về chủ trương, chính sách, Việt Nam đã và đang ứng phó nhanh với các trào lưu và xu hướng toàn cầu. Các nghị quyết mới gần đây, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đưa ra yêu cầu đổi mới căn bản về cơ chế chính sách cho khoa học công nghệ; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới, coi hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và bản lĩnh.
Đồng thời, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới thể chế pháp luật và một số nghị quyết khác được kỳ vọng giúp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội phát triển từ xu thế toàn cầu cũng như khắc phục, ứng phó với các tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Đảm bảo an toàn tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay Theo TS. Lê Thị Thùy Vân, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, cần quản lý, kiểm soát hiệu quả bội chi, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước, nợ của chính quyền địa phương, đảm bảo an ninh an toàn tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. |
Tuy nhiên, TS. Trần Toàn Thắng cũng thẳng thắn nhìn nhận, trong giai đoạn tới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức mang tính cơ cấu và thể chế. Động lực tăng trưởng truyền thống dựa vào vốn và lao động giá rẻ đang dần suy giảm, trong khi đóng góp của năng suất tổng hợp còn hạn chế và chưa hình thành rõ rệt các động lực mới dựa trên đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh. Nhu cầu vốn đầu tư rất lớn song dư địa từ đầu tư công bị ràng buộc bởi trần nợ công, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đứng trước cạnh tranh gay gắt và có nguy cơ chững lại, trong khi đầu tư tư nhân trong nước chưa khai thác hết tiềm năng do rào cản thể chế…
Cần đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý tài chính công
Cùng quan điểm với TS. Trần Toàn Thắng, nhưng dưới góc nhìn tích cực hơn, theo TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức đó, kinh tế trong nước đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tích cực. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao so với khu vực và thế giới, quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020 (xếp thứ 37 trên thế giới) tăng lên 476 tỷ USD năm 2024, dự kiến trên 510 tỷ USD năm 2025, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN.
Tiếp tục đà tăng trưởng của 6 tháng đầu năm 2025, mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025 được kỳ vọng ở mức 8,3 - 8,5%, tạo đà để tăng trưởng đạt mức hai chữ số trong giai đoạn 2026 - 2030.
Có thể nói, trong những năm qua, thể chế, chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính công đã được đổi mới tích cực, ngày càng minh bạch, hiệu quả, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thúc đẩy hội nhập và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thể chế tài chính - ngân sách nhà nước tiếp tục được hoàn thiện theo nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển...
Để nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn lực tài chính công hướng đến tăng trưởng cao trong kỷ nguyên mới, TS. Lê Thị Thùy Vân cho rằng, Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý tài chính công nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính công theo hướng nâng cao 7 hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước.
Đồng thời, cải thiện vai trò dẫn dắt, vốn mồi của nguồn lực ngân sách nhà nước; thực hiện đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị đồng bộ, hiện đại, xanh và thân thiện với môi trường. Nghiên cứu, thực hiện cơ chế quản lý, phân bổ, sử dụng vốn, nhất là vốn đầu tư công hợp lý, hiệu quả để phù hợp với khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước; tập trung phân bổ chi tiết, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các công trình, dự án trọng điểm; đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong giải ngân đầu tư công, trong đó có vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng. Đổi mới chính sách thu ngân sách nhà nước theo hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống thu, cơ cấu lại thu, đảm bảo nguồn ngân sách bền vững, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội...
Nâng cao hiệu quả đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế TS. Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) khuyến nghị, trong thời gian tới, cần thu hẹp phạm vi và đối tượng đầu tư công; chỉ tập trung vào một số ít các lĩnh vực ưu tiên chiến lược như phát triển hạ tầng các loại, phát triển khoa học công nghệ, nghiên cứu phát triển các loại công nghệ chiến lược quốc gia, phát triển giáo dục đào tạo, y tế và chăm sóc sức khoẻ người dân. Cùng với đó, mở rộng đầu tư công phải trên cơ sở duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường kinh doanh để lôi kéo đầu tư tư nhân; dự án đầu tư bắt buộc phải phù hợp với quy hoạch phát triển cùng cấp quản lý, quy hoạch cấp tỉnh, cấp vùng và cấp quốc gia; không bắt buộc đối với các quy hoạch khác. Các cơ quan, tổ chức được giao quản lý vốn, có toàn quyền quyết định về dự án đầu tư, thay đổi, điều chỉnh dự án đầu tư trong quá trình thực hiện… và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được giao. Nghiên cứu, tổng kết các thực tiễn tốt về giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, trên cơ sở đó, ban hành nghị quyết chuyên đề của Quốc hội thống nhất áp dụng đối với dự án đầu tư công. Chính quyền địa phương có thể cụ thể hoá, điều chỉnh phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Cơ quan chủ quản đầu tư thiết lập chuyên mục riêng về công khai thông tin dự án đầu tư công trên trang thông tin điện tử của mình, bao gồm ít nhất các thông tin: đặc điểm hay nội dung cơ bản của dự án đầu tư, chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn giám sát, tiến độ thực hiện theo kế hoạch, tiến độ thực hiện thực tế, tác động dự kiến của dự án đến sinh kế và cuộc sống người dân có liên quan... |