PV: Trong dự thảo Nghị định về hỗ trợ lãi suất cho các dự án xanh, kinh tế tuần hoàn và ESG, Ngân hàng Nhà nước đề xuất cơ chế chi trả qua ngân sách địa phương thay vì qua ngân hàng thương mại như trước. Ông đánh giá thế nào về cách tiếp cận mới này, nhất là khi nhiều gói hỗ trợ trước đây từng gặp vướng mắc, giải ngân chậm?

Thiết kế cơ chế ưu đãi lãi suất minh bạch khi “mở van” tín dụng xanh
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Cơ chế hỗ trợ lãi suất qua ngân sách địa phương được xem là hướng đi mới trong quá trình hoàn thiện chính sách tín dụng xanh, thể hiện sự thay đổi tư duy quản lý, chuyển trọng tâm từ mô hình tập trung qua hệ thống ngân hàng sang mô hình phân quyền có sự tham gia trực tiếp của chính quyền địa phương.

Từ đó, tạo điều kiện để địa phương chủ động hơn trong việc điều phối nguồn lực, giám sát dự án và bảo đảm ưu đãi đến đúng đối tượng, trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải trở thành yêu cầu cấp thiết.

Vai trò của ngân sách địa phương được tăng cường, giúp quá trình triển khai chính sách sát hơn với thực tế kinh tế - xã hội từng vùng, nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng với điều kiện địa phương.

Ngân sách địa phương chịu trách nhiệm thanh toán phần hỗ trợ và giám sát việc sử dụng vốn ưu đãi; ngân hàng tập trung vào nghiệp vụ chuyên môn gồm thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro, quản lý dòng vốn. Điều này tạo ra ranh giới rõ giữa thẩm quyền tài chính và trách nhiệm hành chính, giúp giảm thiểu xung đột khi triển khai và tăng tính minh bạch dòng tiền.

PV: Cơ chế hỗ trợ lãi suất qua ngân sách địa phương tuy được kỳ vọng tạo cú hích cho tín dụng xanh, nhưng nhiều ý kiến cho rằng cũng tiềm ẩn không ít thách thức trong quá trình triển khai. Theo ông, đâu là những vấn đề cần lưu ý?

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Mô hình hỗ trợ qua ngân sách địa phương cũng tiềm ẩn rủi ro mới nếu thiếu hệ thống nghiệp vụ thống nhất, đến tình trạng triển khai không đồng bộ giữa các địa phương. Bởi mỗi tỉnh, thành phố có năng lực quản lý và trình độ cán bộ khác nhau, do đó, nếu không hướng dẫn chi tiết, tiêu chuẩn chung sẽ dễ dẫn đến sai lệch trong xác định đối tượng hỗ trợ.

Cùng với đó, rủi ro có thể phát sinh cơ chế xin - cho, xác nhận dự án và chi trả ưu đãi do cơ quan quản lý nhà nước địa phương trực tiếp thực hiện. Nếu không có hệ thống kiểm soát độc lập thì nguy cơ trục lợi, thao túng, lợi ích nhóm hoàn toàn có thể xảy ra.

Ngoài ra, đối với các dự án xanh, việc đánh giá tiêu chí môi trường đòi hỏi hiểu biết sâu về phân loại xanh và các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan. Đội ngũ quản lý ở cấp địa phương có thể chưa đáp ứng đầy đủ.

Thiết kế cơ chế ưu đãi lãi suất minh bạch khi “mở van” tín dụng xanh
Chính sách hỗ trợ lãi suất 2% được coi là "đòn bẩy" thúc đẩy đầu tư vào công nghệ carbon thấp, năng lượng sạch, hệ thống thu hồi và tái chế tài nguyên... Ảnh tư liệu

PV: Theo ông, cơ chế phối hợp và giám sát nên được thiết kế như thế nào để vừa bảo đảm tính minh bạch, vừa ngăn ngừa nguy cơ trục lợi trong quá trình thực thi chính sách?

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Để cơ chế hỗ trợ lãi suất qua ngân sách địa phương phát huy hiệu quả, cần thiết kế chính sách với nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm và đảm bảo tính minh bạch từng khâu.

Đầu tiên, xác nhận dự án đủ điều kiện hỗ trợ. Cần quy định bắt buộc dự án phải được xác nhận theo Quyết định 21/2025/QĐ-TTg ngày 4/7/2025 quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh (Quyết định 21) trước khi nhận ưu đãi. Việc xác nhận nên có sự tham gia của các tổ chức độc lập để đảm bảo khách quan. Ngân hàng thương mại giữ vai trò thẩm định tín dụng, đánh giá khả năng trả nợ và thực hiện giải ngân. Khoản vay được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng là đối tượng nhận hỗ trợ lãi suất, từ đó, kiểm soát rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống.

Quy trình thanh toán phần hỗ trợ thực hiện theo hình thức thanh toán trực tiếp hoặc hoàn lại qua ngân sách. Cơ quan tài chính địa phương chi trả phần chênh lệch 2% lãi suất cho doanh nghiệp vay hoặc hoàn lại cho ngân hàng định kỳ, dựa trên báo cáo xác nhận đã giải ngân và sử dụng vốn đúng mục đích. Dòng tiền hỗ trợ được tách biệt hoàn toàn với dòng vốn tín dụng, tránh "nhập nhằng" giữa chính sách tài khóa và hoạt động ngân hàng.

Cơ chế mới phân cấp cho địa phương, gỡ "rào cản" giải ngân

"Cơ chế mới giúp giải quyết phần nào rào cản mà hệ thống ngân hàng từng gặp phải trong các gói hỗ trợ lãi suất trước đây. Trong quá khứ, nhiều ngân hàng thương mại e ngại trách nhiệm pháp lý khi xác định đối tượng được hưởng hỗ trợ, lo ngại rủi ro bị thu hồi vốn ngân sách sau thanh tra, dẫn đến tiến độ giải ngân chậm. Khi chuyển cơ chế chi trả sang ngân sách địa phương, vai trò của ngân hàng được tái định nghĩa rõ ràng".

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường

Để bảo đảm tính công khai, cần xây dựng hệ thống dữ liệu liên thông giữa ngân hàng và cơ quan quản lý, các thông tin về khoản vay, mức lãi suất và tình trạng dự án được cập nhật định kỳ trên nền tảng số.

Cùng với đó, cơ chế giám sát và hậu kiểm cần hình thành các nhóm kiểm toán chuyên biệt, tập trung vào việc đối chiếu tiêu chí xanh của dự án, kiểm tra chứng từ chi trả và xác nhận kết quả thực hiện. Khi có dấu hiệu trục lợi hoặc khai sai thông tin, cơ quan chức năng xử lý kịp thời và công khai kết quả, tạo tính răn đe. Minh bạch trong giám sát bảo vệ ngân sách tạo niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư quốc tế khi tham gia vào các dự án xanh tại Việt Nam.

Cần xây dựng cơ quan đầu mối tại địa phương, có thể giao cho Sở Tài chính đảm nhận vai trò tiếp nhận hồ sơ, xác nhận điều kiện dự án, phối hợp với cơ quan tài chính chi trả. Chính phủ nên ban hành hạn mức và mục tiêu cụ thể cho từng tỉnh, tránh tình trạng dồn vốn vào một số địa phương, gây mất cân đối vùng miền.

Khi cơ chế phối hợp giữa trung ương, địa phương và ngân hàng được thiết lập chặt chẽ, chương trình hỗ trợ lãi suất qua ngân sách địa phương có thể trở thành công cụ tài chính hiệu quả, tạo động lực mới cho quá trình chuyển đổi xanh, giảm phát thải và phát triển bền vững.

PV: Với danh mục phân loại xanh đã ban hành và chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho dự án xanh, kinh tế tuần hoàn và ESG đang được xây dựng, theo ông, “bộ đôi" chính sách này sẽ tác động như thế nào trong việc thúc đẩy tín dụng xanh và hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050?

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Quyết định 21 xác lập khung pháp lý và tiêu chí kỹ thuật để nhận diện dự án xanh. Các tiêu chí trong Quyết định 21 hướng đến 7 lĩnh vực trọng tâm, việc xác định rõ ràng ranh giới và tiêu chuẩn của các hoạt động được coi là “xanh”, loại bỏ tình trạng đầu tư sai lệch hoặc gắn mác xanh giả tạo.

Chính sách khuyến khích các ngân hàng tái cấu trúc danh mục tín dụng, tăng tỷ trọng cho vay xanh, hình thành thị trường tài chính xanh với quy mô và chiều sâu lớn hơn. Cùng với đó, danh mục phân loại xanh được xây dựng trên nền tảng tiêu chí minh bạch và tiệm cận chuẩn mực toàn cầu, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tài chính quốc tế, quỹ đầu tư ESG và các định chế tham gia sâu hơn vào thị trường Việt Nam.

Chính sách hỗ trợ lãi suất 2% được coi là "đòn bẩy" thúc đẩy đầu tư vào công nghệ carbon thấp, năng lượng sạch, hệ thống thu hồi và tái chế tài nguyên... Khi dòng vốn rẻ được định hướng vào đúng những lĩnh vực có tác động giảm phát thải cao, tổng lượng phát thải quốc gia có thể được cắt giảm đáng kể trong trung và dài hạn.

Cơ chế "kép" cũng định hình hành vi đầu tư mới trong khu vực tư nhân. Quá trình chuyển đổi được hỗ trợ về định hướng tài chính, giúp các cam kết chính trị về net zero được cụ thể hóa bằng những dự án đầu tư thực chất, góp phần định hình nền kinh tế phát thải thấp, có năng lực cạnh tranh toàn cầu.

PV: Xin cảm ơn ông!