Chuyển đổi sử dụng nhiên liệu - cơ hội cho giảm phát thải khí nhà kính Áp dụng mạnh nông nghiệp tái sinh, tăng năng suất và giảm phát thải khí nhà kính

Đó là thông tin tại Diễn đàn khu vực về "Canh tác lúa phát thải thấp - Hiện thực hóa tầm nhìn trên quy mô cảnh quan" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Việt Nam và Chương trình Tác động đến Hệ thống lương thực thực phẩm, sử dụng đất và phục hồi (FOLUR) của Ngân hàng Thế giới (WB) phối hợp tổ chức, diễn ra từ ngày 9 - 12/9 tại Hà Nội.

Lợi nhuận tại các mô hình trồng lúa giảm phát thải thí điểm tăng 30%

Lợi nhuận tại các mô hình trồng lúa giảm phát thải thí điểm tăng 30%. Ảnh: TL

Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hợp quốc về Hệ thống lương thực thực phẩm (UNFSS), Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu tại COP26 và COP28: cam kết Phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; tham gia sáng kiến Phát thải thấp khí mê-tan toàn cầu; cam kết thực hiện Tuyên bố Glasgrow về rừng và sử dụng đất; tham gia Tuyên bố Emirates về Nông nghiệp bền vững, Hệ thống lương thực thực phẩm có khả năng chống chịu và Hành động vì khí hậu.

Trong bối cảnh mới hiện nay với những biến động của thị trường thế giới, biến chuyển của thị hiếu người tiêu dùng và tác động của biến đổi khí hậu, ngành lúa gạo Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ trong sản xuất và chuỗi giá trị lúa gạo.

Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đến 2030" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu chung của đề án là tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững của ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.

Phát biểu tại diễn đàn, TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN&PTNT) cho biết, để thực hiện thành công đề án, Việt Nam cần phải có những nỗ lực rất lớn, không chỉ từ các cơ quan phía Chính phủ, mà cả khối tư nhân, doanh nghiệp, người sản xuất trực tiếp cùng tham gia thực hiện ở các quy mô khác nhau để khơi thông nguồn lực đầu tư của toàn xã hội.

Đặc biệt, tiếp cận tài chính trở thành một yếu tố then chốt giúp nông dân và doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo có thể đầu tư vào công nghệ mới, cải tiến quy trình sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và người nông dân gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn tài chính để đầu tư vào nông nghiệp.

Bà Mariam Sherman - Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia, Lào cho biết, hỗ trợ của WB cho các dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững đã đạt được những kết quả đáng kể tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện khả năng sản xuất lúa gạo phát thải thấp, chất lượng cao.

Theo đó, lợi nhuận tại các mô hình thí điểm tăng 30% trong khi chi phí sản xuất giảm 25% và lượng CO2 giảm khoảng 1,5 triệu tấn. Điều này cho thấy, chương trình 1 triệu ha lúa có thể đảm bảo sự thay đổi mang tính cách mạng đối với sản xuất lúa, thu hút sự tham gia của tư nhân để đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải và bảo vệ môi trường của Việt Nam./.

Sản xuất lúa gạo cũng tạo ra 4,3% lượng khí thải nhà kính trong hệ thống sản xuất lương thực toàn cầu và 16% lượng khí thải mê-tan trong nông nghiệp. Vì mê-tan là loại khí nhà kính tồn tại trong thời gian ngắn và có khả năng làm nóng toàn cầu cao, nên việc giảm phát thải từ sản xuất lúa gạo có thể tác động nhanh chóng đến việc làm chậm quá trình biến đổi khí hậu.