Nhiều áp lực đổ dồn, căng thẳng tỷ giá vẫn không đáng lo
Trong bối cảnh nhiều áp lực, căng thẳng từ vàng, USD nhưng lãi suất vẫn duy trì ở mức thấp để hỗ trợ phục hồi tăng trưởng. Ảnh tư liệu

PV: Từ đầu năm 2024, biến động tỷ giá USD/VND được ví như đi “tàu lượn” bởi mức độ biến động lớn, tăng giảm nhiều đợt đan xen. Gần đây, tỷ giá tăng đột ngột vào đầu tháng 10/2024, với mức tăng 3,5% chỉ trong 1,5 tháng trong bối cảnh đồng pha với diễn biến của chỉ số DXY thời gian gần đây và tăng tới 4,5% từ đầu năm đến nay, bất chấp động thái cắt giảm lãi suất hai lần của Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed). Xin ông lý giải điều này?

Nhiều áp lực đổ dồn, căng thẳng tỷ giá vẫn không đáng lo

TS. Nguyễn Quốc Việt: Theo tôi, có hai nguyên nhân khiến tỷ giá USD/VND khó hạ nhiệt dù Fed đã giảm lãi suất hai lần.

Ở góc độ quốc tế, tỷ giá tăng trở lại do hiệu ứng khi ông Donald Trump quay trở lại chính trường và đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ. Dự kiến nhiệm kỳ này, ông Trump sẽ thực hiện các chính sách bảo hộ nhằm ưu đãi các nhà sản xuất trong nước và thu hút sản xuất trở lại. Điều đó dẫn đến các dòng vốn đầu tư, đặc biệt đầu tư gián tiếp vừa qua đã rút khỏi rất nhiều quốc gia sẽ quay trở lại Hoa Kỳ, với kỳ vọng cổ phiếu và giá trị các tài sản đầu tư sẽ tăng lên trong nhiệm kỳ ông Trump làm Tổng thống.

Nhiều yếu tố xoa dịu căng thẳng tỷ giá

“Tất cả những yếu tố trên có thể làm dịu áp lực, căng thẳng về ngoại tệ. Từ những phân tích trên, tôi cho rằng vẫn còn dư địa điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ nên Ngân hàng Nhà nước có thể bình tĩnh điều hành chính sách một cách tĩnh tại, “án binh” chờ đối phó với những biến động” - TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và chính sách.

Việt Nam cũng không ngoại lệ, chỉ số chứng khoán tháng 10/2024 sụt giảm so với tháng trước và xu hướng rút ròng các dòng vốn vẫn tiếp diễn, đặc biệt từ các quỹ nước ngoài hay một số dòng vốn gián tiếp. Từ đó, tạo chênh lệch trong cán cân thanh toán quốc tế (BOP) ở cấu phần đầu tư và gây căng thẳng ngoại tệ ngắn hạn.

Mặc dù Fed hạ lãi suất hai lần, lần đầu 50 điểm cơ bản, lần hai 25 điểm cơ bản có thể tạo cân bằng trở lại nhưng hiệu ứng chính trị vẫn cao hơn hiệu ứng về chính sách tiền tệ.

PV: Ở góc độ trong nước, nhân tố nào gây thêm căng thẳng về vấn đề tỷ giá, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Việt: Có thể thấy rõ hai thời điểm khi đồng USD tăng, chúng ta tăng tốc độ nhập khẩu hàng hoá, thậm chí có giai đoạn chuyển sang nhập siêu (tháng 5/2024). Chỉ dấu tích cực là tốc độ nhập khẩu gia tăng, chủ yếu trong khu vực chế biến chế tạo và khu vực kinh tế trong nước.

Đây thực ra là tín hiệu mừng khi thời điểm đầu và cuối năm đều có tín hiệu tốt khi doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, nhằm đáp ứng đơn hàng và phục vụ chuỗi liên kết với các doanh nghiệp FDI, đương nhiên xuất hiện cầu ngoại tệ. Để tăng xuất khẩu có độ trễ nhất định nhưng sẽ tạo động lực tăng trưởng về kinh tế đối ngoại, trong đó có tăng trưởng xuất khẩu. Tôi cho rằng chắc chắn năm nay Việt Nam sẽ tiếp tục xuất siêu.

Điều đó cũng phản ánh rõ ở tổng cung, đáng mừng là chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10/2024 đạt 51,2 điểm, cao hơn tháng khi dưới 50 điểm. Điều đó chứng tỏ đơn hàng phục hồi mạnh mẽ, thậm chí, chúng ta có nhiều đơn hàng đến hết quý 1-2/2025. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý để chính sách tương lai hài hòa hơn, đưa thêm giá trị nội địa để tạo giá trị gia tăng khi xuất khẩu. Một mặt, sẽ gia tăng hàm lượng nội địa; mặt khác, đỡ căng thẳng khi cần ngoại tệ nhập khẩu trong ngắn hạn vì tính chất thời vụ.

Cùng với đó, không ngoại trừ trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cuối năm phục vụ Tết và các lễ hội, cùng chính sách kích cầu tiêu dùng kéo dài, đặc biệt từ hiệu ứng tăng lương, từ đó, hỗ trợ kích cầu tiêu dùng trong nước. Thủ tướng Chính phủ từng nhấn mạnh đây là động lực tăng trưởng truyền thống quan trọng, cần thúc đẩy.

Bên cạnh cầu tiêu dùng nội địa tăng lên từ việc nhập khẩu hàng hóa thiết yếu, một số mặt hàng chuyên biệt phục vụ nhu cầu người dân tăng như nhập khẩu ô tô hạng sang, dù nhập khẩu hàng xa xỉ trong điều kiện kinh tế còn khó khăn và mới phục hồi sau đại dịch cũng không khuyến khích và tiêu hao thêm ngoại tệ.

Dù vậy, ở góc độ dài hạn cũng cần lưu ý rủi ro căng thẳng địa chính trị ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam và nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump dự báo sẽ tiếp tục những cuộc thương chiến với Trung Quốc. Do đó, Việt Nam cần phải theo dõi kỹ các dòng hàng nhập khẩu có thể bị “trục lợi” xuất xứ để xuất khẩu.

Ngoài ra, cũng không loại trừ khả năng chúng ta nhập khẩu thêm vàng để bình ổn trong điều kiện giá vàng quốc tế tăng cao.

PV: Trong tháng 10/2024 khi tỷ giá bật tăng, Ngân hàng Nhà nước thắt chặt tiền tệ ở mức độ vừa phải thông qua việc bán tín phiếu ở trên thị trường mở. Tuy nhiên, giữa tháng 11/2024, đồng USD lên rất mạnh nhưng chưa thấy động thái gì từ Ngân hàng Nhà nước, điều này lý giải thế nào, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Việt: Ngay từ đầu năm, VEPR đánh giá rằng động thái điều hành chính sách tiền tệ rất linh hoạt thông qua các công cụ trên thị trường mở rất hiệu quả kể cả trong bối cảnh nhiều áp lực, căng thẳng từ vàng, đô nhưng lãi suất vẫn duy trì ở mức thấp để hỗ trợ phục hồi tăng trưởng. Thậm chí có những giai đoạn cho thấy áp lực lạm phát lớn từ nhiều yếu tố, cả bên trong lẫn bên ngoài nhưng cuối cùng, lạm phát chắc chắn dưới 4% đạt mục tiêu đề ra. Dấu hiệu để có căng thẳng thanh khoản cũng chưa thấy.

Bên cạnh đó, nền tảng tài khóa tương đối tốt, thu ngân sách vượt trội so với dự toán.

Về biến động quốc tế, giá năng lượng giảm sâu nên không căng thẳng về giá đầu vào ngắn hạn, tức áp lực lạm phát do chi phí đẩy không lớn. Lạm phát hạ nhiệt và tiến về sát mức mục tiêu, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Xu thế chung tại tất cả các ngân hàng trung ương trên thế giới là giảm lãi suất điều hành rõ rệt, Fed dự định tiếp tục giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 12/2024.

PV: Xin cảm ơn ông!

Tỷ giá tiếp tục chịu nhiều sức ép

Vừa qua, Fed cắt giảm lãi suất hai lần trong tháng 9/2024 và 11/2024, tổng cộng 75 điểm cơ bản sau 4 năm và dự kiến tiếp tục chu kỳ nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời gian tới. Tuy nhiên, áp lực lên tỷ giá USD/VND đến nay vẫn lớn, gây lo ngại đẩy tăng chi phí các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam và có thể làm tăng giá thành các sản phẩm.

Về vấn đề này, trong phiên chất vấn lĩnh vực ngân hàng tại nghị trường Quốc hội vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho rằng, việc Fed giảm lãi suất và một số ngân hàng trung ương đang trong quá trình nới lỏng chính sách tiền tệ thoạt đầu giảm bớt áp lực đối với tỷ giá.

“Tuy nhiên, tỷ giá và thị trường ngoại hối chịu tác động bởi rất nhiều các yếu tố, không chỉ yếu tố lãi suất của Fed mà còn đặc biệt phụ thuộc vào cung, cầu ngoại tệ thực của nền kinh tế” - Thống đốc NHNN cho biết. Theo đó, nếu xuất khẩu cải thiện, thu hút đầu tư tiếp tục tăng lên thì tỷ giá sẽ thuận lợi hơn. Trường hợp nhu cầu nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu tăng lên sẽ ảnh hưởng đến cung, cầu ngoại tệ. Ngoài ra còn có yếu tố tâm lý kỳ vọng, đầu cơ, găm giữ.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh tinh thần kiên định với mục tiêu lạm phát để ổn định giá trị của VND và kết hợp giữa chính sách lãi suất, tỷ giá để VND hấp dẫn hơn, từ đó, khuyến khích người dân chuyển hóa ngoại tệ ra VND. NHNN cũng rất mong muốn giảm lãi suất nhưng nếu giảm nhiều sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá và thị trường ngoại hối, làm thế nào để cân bằng và hài hòa được các mục tiêu là câu chuyện khó./.