Đề xuất cho phép doanh nghiệp được chuyển nhượng dự án bất động sản Cơ hội tháo gỡ tình trạng chồng chéo luật về các dự án bất động sản

Sáng 21/4, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia để đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023; đồng thời công bố ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2022 của trường.

Chủ đề của hội thảo cũng như của ấn phẩm thường niên năm nay là “Kinh tế Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023: Ổn định và phát triển thị trường bất động sản”.

Gỡ điểm nghẽn trên thị trường bất động sản để thúc đẩy tăng trưởng

Theo GS.TS Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn và bất định, kinh tế Việt Nam năm 2022 đã đạt mức tăng trưởng vượt trội ngay sau giai đoạn tăng trưởng suy giảm sâu do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, một số vấn đề của nền kinh tế vẫn còn tồn tại, đặc biệt là sự lành mạnh của hệ thống tài chính tiền tệ còn chưa được cải thiện, ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Một trong những điểm nghẽn có mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống tài chính tiền tệ là thị trường bất động sản (BĐS) còn nhiều rủi ro, bất ổn và chưa được phát triển một cách bền vững.

Để giải quyết khó khăn cho thị trường BĐS, không để thị trường BĐS trở thành nhân tố tác động gây lạm phát cao và nền kinh tế “bong bóng”, việc nghiên cứu đánh giá thực trạng thị trường BĐS để có cơ sở đề xuất giải pháp nhằm quản lý và phát triển lành mạnh thị trường BĐS trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Nhiều dự án bất động sản tồn đọng sau các vụ án cần cơ chế xử lý

GS.TS Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, phát biểu tại hội thảo

Phát biểu đề dẫn hội thảo, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển nêu rõ, kết quả quý I/2023 vừa qua đã cho thấy những khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam ngày càng hiện hữu, thể hiện ở mấy điểm chính như: GDP chỉ đạt 3,32% so với cùng kỳ 2022; các đầu tàu kinh tế lớn của cả nước đều sụt giảm tăng trưởng nghiêm trọng; ngành công nghiệp nói chung và ngành chế biến chế tạo nói riêng luôn là động lực tăng trưởng chính cho nền kinh tế đã đánh mất động lực tăng trưởng… “Mục tiêu năm 2023 với tăng trưởng đạt 6,5%, lạm phát tiêu dùng bình quân 4,5% nếu không thực sự quyết liệt và khôn khéo, chủ động và linh hoạt trong điều hành, sẽ là thách thức rất lớn” - ông Nguyễn Đức Hiển nhấn mạnh.

Trong đó, một điểm nghẽn cần đột phá trong năm 2023 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chính là thị trường BĐS. Nếu giải quyết tốt được thị trường BĐS, sẽ giúp lành mạnh hóa thị trường tiền tệ - vốn, phát triển các ngành công nghiệp liên quan như xi măng, thép, đồng thời giải quyết được số lượng lớn việc làm.

Số liệu cho thấy, trong quý I năm 2023, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BĐS thành lập mới giảm mạnh (quý I/2023 là 940 doanh nghiệp, giảm 63,2% so với cùng kỳ năm 2022), bên cạnh đó số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng kinh doanh có thời hạn lần lượt là 341 doanh nghiệp (tăng 30,2%) và 1.816 doanh nghiệp (tăng 60,7%) so với cùng kỳ năm trước.

Trong quý I/2023, theo khảo sát thì có thêm khoảng 30% - 50% sàn giao dịch phải đóng cửa hoặc tạm dừng hoạt động so với quý trước, đồng thời ước lượng số môi giới đang hoạt động hiện nay chỉ còn khoảng 30% - 40% so với giai đoạn đầu năm 2022. Áp lực thanh khoản trên thị trường BĐS vẫn là rủi ro lớn đối với kinh tế Việt Nam 2023.

Ngoài ra, theo Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, hiện nay, tại rất nhiều địa phương, nhất là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khánh Hòa, Đà Nẵng đang tồn đọng một số lượng lớn các dự án BĐS cần cơ chế đặc thù để xử lý sau kết luận thanh tra, kiểm tra và các bản án; nếu xử lý được sẽ có một nguồn lực rất lớn để góp phần thúc đẩy tăng trưởng cho năm 2023.

Tâm lý thị trường vẫn là "chờ đợi, nghe ngóng"

Trình bày đánh giá tổng quan về thị trường BĐS năm 2022, GS.TS Hoàng Văn Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã nêu ra một số tồn tại chính của thị trường. Một trong đó là quy định chồng chéo giữa các luật và vướng mắc pháp lý ảnh hưởng đến thị trường BĐS cơ bản vẫn chưa được tháo gỡ và giải quyết. Điều này đã làm cho nguồn cung trên thị trường không đảm bảo, nhiều địa phương không có căn cứ pháp lý để thực hiện, triển khai các dự án đầu tư, dẫn đến thiếu hụt nguồn cung, hoặc nguồn cung không đảm bảo tính pháp lý gây rủi ro cho cả thị trường, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó là những khó khăn về dòng vốn, tín dụng…, đã ảnh hưởng đến tâm lý trên thị trường BĐS, đại bộ phận các chủ thể tham gia thị trường đều chờ đợi, nghe ngóng các phản ứng chính sách và diễn biến thị trường.

Nhiều dự án bất động sản tồn đọng sau các vụ án cần cơ chế xử lý
GS.TS Hoàng Văn Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trình bày tại hội thảo.

Trong phần đề xuất giải pháp cho thị trường, GS.TS Hoàng Văn Cường kiến nghị kết thúc sớm việc thanh tra/xử lý với các dự án bị tạm dừng, để tiếp tục triển khai đưa sản phẩm ra thị trường, bởi thực tế hiện nay rất nhiều dự án đang bị dừng vì thanh tra, kiểm tra.

Đồng thời, chúng ta cần tập trung giải quyết nhiều vướng mắc pháp lý, từ trung ương đến địa phương, với việc thành lập các ban xử lý ngay các vướng mắc này. Đặc biệt, phải loại bỏ cách trả lời hướng dẫn chung chung “làm theo quy định pháp luật”, khi mà quy định pháp luật không rõ ràng; thay vào đó, phải chỉ ra cách giải quyết thuận lợi nhất để địa phương áp dụng.

Về tài chính, GS.TS Hoàng Văn Cường đề nghị có giải pháp kiểm soát việc cho vay đầu cơ BĐS, cho phép chuyển trái phiếu doanh nghiệp thành trái phiếu chuyển đổi sản phẩm. Đối với những dự án quan trọng, Chính phủ xem xét mua lại trái phiếu để tránh các dự án này rơi vào tay nhà đầu tư nước ngoài.

Theo báo cáo của Fiin Group, BĐS là ngành có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức 20,17% cao thứ 2 sau ngành năng lượng (63,1%). Đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp BĐS hiện đang có quy mô lưu hành lên tới hơn 396.300 tỷ đồng, chiếm 33,8% tổng giá trị lưu hành. Tính đến ngày 17/3/2023, đã có 69 tổ chức phát hành có 1 hoặc nhiều hơn 1 lô trái phiếu lưu hành đã không thể đáp ứng nghĩa vụ nợ với tổng giá trị 94.043 tỷ đồng, chiếm 8,15% giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành. Trong số đó 43/69 là doanh nghiệp BĐS, với tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm trả nợ ở mức 78.900 tỷ đồng, chiếm 82,6% với tổng giá trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu.