Được hỗ trợ tối đa lên tới 70% tổng mức đầu tư

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý và thể chế cho đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), qua đó ghi nhận ngày càng rõ nét vai trò của khu vực tư nhân trong việc thu hẹp khoảng cách hạ tầng và nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Nhiều ưu đãi vượt trội cho các dự án PPP về khoa học công nghệ
Các dự án PPP về khoa học công nghệ được hưởng nhiều ưu đãi vượt trội. Ảnh minh họa

Luật PPP năm 2020 cùng với các sửa đổi vào năm 2024, 2025 và hệ thống Nghị định hướng dẫn đã tạo nên một nền tảng pháp lý thống nhất, giúp quản lý hiệu quả các dự án PPP trên nhiều ngành, lĩnh vực.

Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu huy động khoảng 245 tỷ USD từ nay đến năm 2030, để triển khai các dự án hạ tầng trọng điểm, PPP được xem là một trong những mô hình chiến lược nhằm thu hút vốn tư nhân, tận dụng năng lực quản trị, đổi mới sáng tạo và hiệu quả vận hành của khu vực tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và chất lượng dịch vụ công.

Việc sửa đổi Luật PPP và các nghị định liên quan đã mở rộng tối đa lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP, tăng tính linh hoạt trong cơ chế tài chính - chia sẻ rủi ro, đồng thời rút gọn quy trình để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ngoài việc mở rộng PPP sang lĩnh vực khoa học công nghệ, Luật PPP còn có các ưu đãi vượt trội cho lĩnh vực này.

Theo đó, các dự án PPP khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, dự án ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới được miễn thủ tục quyết định chủ trương, bỏ qua giai đoạn 1 (lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư) và bắt đầu trực tiếp từ giai đoạn 2 (lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, phê duyệt dự án, lựa chọn nhà đầu tư, ký kết, thực hiện hợp đồng).

Dự án PPP khoa học, công nghệ cũng được ưu tiên mức vốn nhà nước lớn, từ 50- 70% tổng mức đầu tư. Đặc biệt, các dự án PPP còn được hỗ trợ rất lớn trong cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu.

Cụ thể, các dự án khoa học công nghệ không yêu cầu nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ phần tăng doanh thu trong 3 năm đầu sau thời điểm vận hành, kinh doanh.

Trong 3 năm đầu sau vận hành, kinh doanh, cho phép áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn doanh thu trong phương án tài chính. Chính sách này nhằm đáp ứng chủ trương thu hút tối đa nguồn lực của khu vực tư nhân vào lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thông qua cơ chế hợp tác công tư.

Các dự án PPP cũng được ưu đãi không bắt buộc nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp dự án PPP, tuy nhiên nhà đầu tư phải tổ chức quản lý và hạch toán độc lập doanh thu, chi phí của dự án PPP với hoạt động kinh doanh khác.

Cú hích từ Nghị định 180/NĐ-CP

Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, được xác định là một động lực mới của tăng trưởng. Các mô hình PPP trong lĩnh vực khoa học công nghệ, dữ liệu, hạ tầng số, trí tuệ nhân tạo, cũng như hợp tác ba bên giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường được ghi nhận như những hướng đi đột phá cần được khuyến khích.

Theo ông Phạm Thy Hùng - Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Tài chính, khung pháp lý về PPP là tương đối đầy đủ, từ luật, tới nghị định, thông tư hướng dẫn. Riêng lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, gần đây đã có khung pháp lý chuyên biệt về PPP trong lĩnh vực này.

Cụ thể, ngày 1/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 180/2025/NĐ-CP quy định về cơ chế hợp tác công tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, quy định nhiều cơ chế chính sách đặc thù cho lĩnh vực này.

Trong đó, mở rộng các hình thức hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư, không chỉ giới hạn trong phạm vi Luật PPP 2020 mà còn mở ra các hình thức hợp tác khác, ví dụ dự án về hạ tầng số, phòng thí nghiệm trọng điểm, hay các dự án nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, hợp tác khu vực công- tư qua các mô hình (như mô hình 3 nhà)…

Cơ chế hợp tác được quy định linh hoạt, bao gồm: thực hiện theo Luật PPP, sử dụng tài sản công để liên doanh, liên kết và các hình thức khác theo quy định pháp luật.

Ông cũng cho biết, khi Chính phủ ban hành Nghị định 180/2025/NĐ-CP, Bộ Tài chính rất quyết liệt thúc đẩy thực hiện, thông qua những hoạt động như trực tiếp làm việc với các bộ, ban ngành, địa phương và các doanh nghiệp công nghệ để xây dựng, đề xuất các dự án triển khai trong lĩnh vực này.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng có một số văn bản hướng dẫn các bộ ngành, địa phương về tiêu chí lựa chọn các dự án có tiềm năng triển khai theo hợp tác công tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Theo tổng hợp của Cục Quản lý đấu thầu, đến thời điểm hiện nay, có khoảng gần 80 dự án tiềm năng về lĩnh vực này. Một vài trong số các dự án tiềm năng nhất là dự án “Phát triển đô thị thông minh, bản sao số trên địa bàn TP. Đà Nẵng” (Sở Khoa học công nghệ TP. Đà Nẵng) và “Mô hình hợp tác 3 bên giữa nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ” (Đại học Bách khoa Hà Nội).

Hiện Bộ Tài chính đang xây dựng sổ tay hướng dẫn thực hiện các dự án hợp tác công tư về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Dự kiến sổ tay sẽ hoàn thành trong tháng 1/2026, đưa ra các bước thực hiện cũng như hướng dẫn cụ thể để các đơn vị tham khảo đối với thực hiện các dự án PPP về lĩnh vực này.

Về chính sách thuế, theo Nghị định 180/2025/NĐ-CP, doanh nghiệp thực hiện dự án PPP được phép tính gấp đôi chi phí thực tế dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.