Tỷ lệ nợ công đang được kiểm soát

Tỷ lệ nợ công đang được kiểm soát trong giới hạn Quốc hội cho phép. Ảnh: Đức Minh

Ông Võ Hữu Hiển - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, đã có cuộc trao đổi với phóng viên TBTCVN xung quanh nội dung trên.

PV: Xin ông cho biết tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay ra sao?

Ông Võ Hữu Hiển: Trong những năm vừa qua, Bộ Tài chính đã quyết liệt triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững theo đúng chủ trương của Bộ Chính trị, của Quốc hội và Chính phủ.

Cùng với thành quả củng cố tình hình tài khóa thông qua cắt giảm bội chi, Bộ Tài chính đã kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ chính phủ và siết chặt việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, nhờ vậy, nợ công so với GDP giảm mạnh từ 63,7% năm 2016 xuống khoảng 55% cuối năm 2019. So với mức trần Quốc hội cho phép là 65% GDP, thì áp lực gánh nặng nợ công rõ ràng đã giảm đi rất nhiều.

Đối với năm 2020, trên cơ sở kịch bản tăng trưởng của Bộ Kế hoạch Đầu tư trình Chính phủ, Quốc hội, Bộ Tài chính đã đưa ra các kịch bản đánh giá tác động đến cân đối ngân sách nhà nước và nợ công. Với việc thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành, có tính đến phương án tiếp tục triển khai chính sách nới lỏng tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế, tùy vào kết quả tăng trưởng trong bối cảnh đại dịch Covid-19, chúng tôi dự kiến nợ công có thể lên khoảng 57 - 58% GDP cuối năm 2020.

PV: Trước tác động của dịch Covid-19, Thủ tướng Chính phủ vừa có chủ trương có thể xem xét tăng thêm tỷ lệ nợ công trên GDP để có thêm nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế. Xin ông cho biết chủ trương trên có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu nợ công không, thưa ông?

Ông Võ Hữu Hiển

Ông Võ Hữu Hiển

Ông Võ Hữu Hiển: Theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017, Chính phủ được phép vay để bù đắp bội chi ngân sách trung ương cho đầu tư phát triển, không sử dụng vốn vay cho chi thường xuyên; vay để chi trả nợ gốc đến hạn và vay nước ngoài về cho vay lại đối với ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp. Việc điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế - xã hội và bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 thuộc về thẩm quyền của Quốc hội. Trường hợp Quốc hội phê duyệt phương án tăng tỷ lệ bội chi, Chính phủ sẽ có nhiệm vụ huy động vốn vay bổ sung để đảm bảo cân đối ngân sách.

Theo kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhiệm vụ vay của Chính phủ khoảng 500 nghìn tỷ đồng (trong đó, vay vốn nước 395 nghìn tỷ đồng, vay nước ngoài 105 nghìn tỷ đồng). Trường hợp tăng vay vốn để bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển và hỗ trợ nền kinh tế, ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19 thì khả năng các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ so với GDP vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép. Tuy vậy, chỉ tiêu trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách có thể gặp áp lực lớn.

PV: Phương án vay vốn bổ sung so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt có phải là thách thức lớn không, thưa ông?

Ông Võ Hữu Hiển: Như chúng ta đã biết, vay nợ có 2 nguồn: vay nước ngoài và vay trong nước. Thời gian vừa qua, để đảm bảo bền vững nợ công, cả hai nguồn vay này đều được kiểm soát chặt chẽ, vì thế có vay thêm ở nguồn nào cũng sẽ là thách thức không nhỏ.

Đối với ODA ưu đãi thì muốn vay được trong năm, Việt Nam phải chuẩn bị tới 2 - 3 năm do đòi hỏi nhiều thủ tục, trình tự phải triển khai trước khi có thể tiến tới đàm phán, ký kết và giải ngân. Nếu huy động vốn vay nước ngoài để hỗ trợ trực tiếp cho ngân sách có thể triển khai nhanh hơn, nhưng thông thường các khoản vay này có quy mô nhỏ và kèm theo ràng buộc chính sách.

Đối với phát hành trái phiếu chính phủ trong nước thì được huy động theo kế hoạch đã được duyệt, khoảng 310 nghìn tỷ đồng. Tuy thị trường trái phiếu phát triển nhanh trong những năm vừa qua, khả năng hấp thụ vốn của thị trường trái phiếu chính phủ trong nước vẫn còn hạn chế. Việc thực hiện phát hành thêm khối lượng vốn lớn sẽ dẫn đến nguy cơ gây áp lực gia tăng chi phí vay vốn của Chính phủ, hoặc dẫn đến rủi ro tái cấp vốn trong những năm sau trong trường hợp Chính phủ phải phát hành trái phiếu kỳ hạn ngắn để đáp ứng nhu cầu vay tăng cao.

Ngoài ra, qua nghiên cứu tình hình các nước cho thấy, việc bội chi, nợ công gia tăng mạnh trở lại, cũng như việc tham gia vào các sáng kiến giảm nợ của một số tổ chức quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp và tiêu cực lên hệ số tín nhiệm của một số nước. Việc bị hạ bậc tín nhiệm quốc gia gắn với hệ lụy một mặt làm ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, mặt khác còn làm tăng chi phí vay vốn của toàn bộ nền kinh tế.

Nợ công là chỉ tiêu quan trọng, đánh giá tín nhiệm an toàn tài chính của một quốc gia. 7 tháng đầu năm nay, có 40 quốc gia trên thế giới và trong khu vực bị hạ mức tín nhiệm, chủ yếu là do các gói hỗ trợ tài khóa cho phòng, chống dịch Covid-19, dẫn đến gánh nặng nợ công gia tăng mạnh. Trong khi đó, hệ số tín nhiệm của Việt Nam đã được cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm (Standard & Poor's (S&P), Moody's, và Fitch Group) tiếp tục giữ nguyên. Không đơn giản để giữ được điều này.

Như vậy, bài học rút ra cho thấy việc huy động các nguồn vay mới, bao gồm cả các khoản hỗ trợ Covid-19, cần được thẩm định, lựa chọn kỹ về tính hiệu quả, so sánh chi phí - lợi ích để đảm bảo khả năng trả nợ trong trung, dài hạn trước khi quyết định vay.

PV: Xin cảm ơn ông!

Hệ số tín nhiệm của Việt Nam không giảm

Nợ công là chỉ tiêu quan trọng, đánh giá tín nhiệm an toàn tài chính của một quốc gia. 7 tháng đầu năm nay, có 40 quốc gia trên thế giới và trong khu vực bị hạ mức tín nhiệm, chủ yếu là do các gói hỗ trợ tài khóa cho phòng, chống dịch Covid-19, dẫn đến gánh nặng nợ công gia tăng mạnh. Trong khi đó, hệ số tín nhiệm của Việt Nam đã được cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm (Standard & Poor's (S&P), Moody's, và Fitch Group) tiếp tục giữ nguyên. Không đơn giản để giữ được điều này.

Khánh Huyền (thực hiện)