Thủ tướng: Doanh nghiệp tư nhân “3 tiên phong” để “công – tư đồng kiến quốc”

4 doanh nghiệp tư nhân nộp hơn 10.000 tỷ đồng vào ngân sách năm 2024 Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh có thể vay vốn xanh rẻ hơn 2%/năm đến 2030

Ngày 6/11, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) phối hợp cùng Viện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam (KAS) tổ chức Hội thảo Đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500 - Báo cáo 2025).

Lực đẩy của 500 doanh nghiệp tư nhân dẫn đầu

Báo cáo lần đầu tiên về VPE500 được công bố năm 2022. VPE500 dựa trên ba tiêu chí, đó là quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. Thứ hạng VPE500 là trung bình cộng thứ hạng theo lao động, tổng nguồn vốn và doanh thu thuần. Báo cáo lần này tập trung biến động của VPE500 trong giai đoạn 2022 - 2023, nền kinh tế đang phục hồi và tiến tới giai đoạn tăng trưởng cao.

Chia sẻ tại hội thảo, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng ban, Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, báo cáo không tập trung vào mục đích xếp hạng, mà tập trung nhiền hơn vào phân tích kết quả hoạt động và liên kết, tác động của nhóm doanh nghiệp VPE500.

Theo ông Thắng, tại thời điểm cuối năm 2023, Việt Nam có trên 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, có 940 ngàn doanh nghiệp có báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm 97% số doanh nghiệp, thu hút 57,78% số lao động, chiếm 50,67% vốn và tạo ra 52,56% doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp.

VPE500: Tạo lực đẩy cho 500 doanh nghiệp tư nhân lớn, đưa thương hiệu Việt vươn toàn cầu

Nguồn: Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính.

Chiếm 0,05% số doanh nghiệp nhưng tạo hơn 11% doanh thu

Mặc dù chỉ có 500 doanh nghiệp (chiếm khoảng 0,05% tổng số), VPE500 đang đóng góp đáng kể vào khu vực doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. VPE500 đóng góp 11,83% doanh thu, 17,41% nguồn vốn và 5,86% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ này có dấu hiệu gia tăng kể từ năm 2020.

So sánh với khối doanh nghiệp tư nhân nói chung, nhóm VPE500 gấp trên 200 về lao động; gấp tới 500 lần về tổng tài sản; gấp hơn 300 lần về doanh thu và 389 lần về số tiền nộp ngân sách.

Tính theo ngành, số lượng VPE500 trong ngành chế biến chế tạo đã giảm đi so với trước giai đoạn Covid-19, từ 236 còn 207 doanh nghiệp, nhường chỗ chỗ nhóm ngân hàng - tài chính; bất động sản...

Theo đó, ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng từ 37 doanh nghiệp lên 52 doanh nghiệp, phản ánh bước trưởng thành của hạ tầng tài chính tư nhân Việt Nam, do quá trình đa dạng hóa mô hình kinh doanh tài chính.

Ngành thương mại tăng từ 72 lên 90. Ngành bất động sản chứng kiến sự gia tăng mạnh, từ 22 lên 40 doanh nghiệp. Điều này cho thấy những ngành tăng trưởng nhanh thời gian qua vẫn tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ, tài sản. Trong khi đó, các ngành sản xuất thu hẹp.

Với riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Trong đó, về doanh thu, với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% trong ngành ngân hàng, 47% với ngành bất động sản và trong chế biến chế tạo là khoảng 13%.

Cũng theo đánh giá của Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, các doanh nghiệp VPE500 có tác động lan toả khá tốt tới các ngành và lĩnh vực. Các doanh nghiệp VPE500 không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn, mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành khác.

Tạo không gian để doanh nghiệp "chịu lớn”

Theo đánh giá của ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam, khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển năng động dù đối mặt nhiều thách thức. Khu vực này đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP và tạo việc làm, song vẫn tồn tại những khó khăn mang tính nền tảng.

500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam
Các đại biểu trao đổi tại phiên thảo luận. Ảnh: Đức Việt.

Theo ông Hùng, môi trường kinh doanh còn nhiều rào cản, thể hiện ở chi phí tuân thủ cao, tính minh bạch và khả năng dự đoán chính sách còn yếu, khiến doanh nghiệp không muốn lớn, chỉ duy trì quy mô “vừa đủ”. Từ đó, năng lực quản trị doanh nghiệp cũng khó cải thiện.

Về khả năng tiếp cận thị trường tài chính, theo ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng ADB, doanh nghiệp tư nhân vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, chi phí vốn cao. Chỉ những doanh nghiệp hiệu quả, doanh thu lớn, có lợi suất cao hơn chi phí vốn mới đủ sức mở rộng và tồn tại lâu dài.

Một rào cản khác nằm ở hiệu lực thực thi hợp đồng và liên kết chuỗi giá trị. Nhiều doanh nghiệp Việt chủ yếu tự làm, tự phát triển công ty con trong hệ sinh thái, thay vì hợp tác trong chuỗi.

"Nếu giải quyết khó khăn căn bản đó, khu vực tư nhân Việt Nam năng động hoàn toàn có thể phát triển đột phá" - Chuyên gia kinh tế trưởng ADB nhấn mạnh.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, dịch chuyển chuỗi giá trị và chuyển đổi số, việc hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân vươn ra thị trường quốc tế trở thành trụ cột trong chính sách phát triển của nhiều quốc gia.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các công cụ chính sách thường được thiết kế xoay quanh ba nhóm lớn, đó là ưu đãi thuế; tín dụng và bảo lãnh tài chính; khung thể chế - chiến lược quốc gia.

Theo TS. Trần Toàn Thắng, thay vì "rải mành mành" dàn trải nguồn lực hỗ trợ cho tất cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách cần chuyển trọng tâm sang thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, có khả năng vươn ra toàn cầu.

Ông Thắng cũng gợi mở việc hướng tới hỗ trợ theo chuỗi và theo ngành công nghiệp, thay vì hỗ trợ cho từng doanh nghiệp riêng lẻ, qua đó, tạo nền tảng tăng trưởng bền vững cho toàn nền kinh tế./.

Doanh nghiệp Việt cần tư duy phục vụ 8 tỷ người

Chia sẻ về hành trình vươn ra toàn cầu của một số doanh nghiệp lớn, bà Bùi Kim Thùy, Phó Chủ tịch President Club, Thành viên Hội đồng Cố vấn Harvard - Asia Pacific (APAB) nhấn mạnh, tư duy phục vụ thị trường 100 triệu dân trong nước rất khác so với tư duy phục vụ thị trường 8 tỷ dân toàn cầu, khác từ mô hình quản trị, tiêu chuẩn sản phẩm đến quy định hỗ trợ doanh nghiệp “go global”.

Đơn cử, ở Mỹ, khi một dịch vụ mới như Facebook hay Netflix... ra đời, chỉ sau vài tháng người dùng Việt Nam đã có thể tiếp cận. "Khu vực công tại các quốc gia này thiết kế chính sách giúp doanh nghiệp tư nhân vươn ra toàn cầu và phục vụ người của 8 tỷ người dân toàn cầu" - bà Thuỳ nhấn mạnh.

Để doanh nghiệp Việt vươn ra toàn cầu, cần có sự đồng lòng, ủng hộ giữa khu vực chính sách và người tiêu dùng, trong đó có người tiêu dùng trong nước. Lúc đầu sản phẩm có thể không hoàn hảo, nhưng doanh nghiệp không rụt rè, dám bước đi và hoàn thiện dần, từ đó, đi ra thế giới bằng chính thương hiệu và chuỗi giá trị do người Việt làm chủ./.