Cán cân thương mại lập kỷ lục và áp lực nội địa hóa mở rộng
Bức tranh kinh tế năm 2025 nổi bật với dấu mốc tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt 801 tỷ USD tính đến 15/11, trong đó xuất khẩu đạt hơn 410 tỷ USD và tạo mức xuất siêu 19,54 tỷ USD. Sự tăng trưởng ấn tượng của nhóm điện tử, linh kiện – đạt mức tăng 48,3% tương đương 30,01 tỷ USD; nhóm máy móc, thiết bị tăng 11,7% cho thấy khả năng mở rộng sản xuất của các ngành công nghệ cao tại Việt Nam đang được khẳng định mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nhập khẩu linh kiện vẫn ở mức cao, thể hiện qua việc nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 6,62 tỷ USD; nhóm máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 2,59 tỷ USD. Những con số này cho thấy dư địa phát triển của công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước vẫn rất lớn và đặt ra yêu cầu cấp bách về nâng cao năng lực cung ứng để giảm phụ thuộc nhập khẩu.
| Sự sáp nhập địa giới tạo ra sự cộng hưởng chức năng giữa khu vực trung tâm (tài chính quốc tế, công nghệ cao, dịch vụ), khu vực phía Bắc (công nghiệp công nghệ cao, đổi mới sáng tạo) và khu vực Đông Nam (kinh tế biển, du lịch, năng lượng sạch, logistics), từ đó mở rộng hệ sinh thái công nghiệp. |
Ở góc độ địa phương, TP.Hồ Chí Minh - với diện tích mới được mở rộng lên 6.772,6 km² sau hợp nhất, tiếp tục đóng vai trò đầu tàu kinh tế cả nước. Với tổng GRDP năm 2024 hơn 123 tỷ USD, chiếm 23,3% GDP cả nước, cùng quy mô FDI còn hiệu lực 141,267 tỷ USD và gần 20.000 dự án, thành phố đang có điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp hỗ trợ như một trong các ngành công nghiệp trọng yếu.
![]() |
| Sau sáp nhập, TP. Hồ Chí Minh đang có điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Ảnh minh hoạ |
Trên nền tảng này, TP.Hồ Chí Minh tập trung vào bốn nhóm nhiệm vụ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp CNHT. Thành phố chú trọng hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ liên quan đến đất đai, tín dụng, thuế và đổi mới công nghệ; phát triển các khu – cụm công nghiệp chuyên sâu gắn với hạ tầng R&D và kiểm định chất lượng; thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển nhân lực chất lượng cao. Đồng thời tăng cường kết nối doanh nghiệp trong nước với các tập đoàn quốc tế thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, kết nối cung – cầu và triển lãm chuyên ngành. Mục tiêu xuyên suốt là phát triển CNHT theo mô hình “ngành công nghiệp nền tảng”, hướng đến tăng chất lượng tăng trưởng và hình thành các chuỗi giá trị mới.
Bà Trương Thị Chí Bình - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho biết, mạng lưới doanh nghiệp CNHT hiện có hơn 420 hội viên, doanh thu đạt hơn 4,58 tỷ USD năm 2024, tập trung ở Hà Nội, Đà Nẵng và TP.Hồ Chí Minh. Cơ cấu ngành nghề cho thấy khả năng sản xuất đa dạng, trong đó chế biến kim loại chiếm 55%, nhựa – cao su chiếm 25%, điện – điện tử chiếm 10%.
Các doanh nghiệp đang hoạt động theo mô hình OEM, ODM và OBM, cung ứng cho các ngành công nghiệp mũi nhọn như ô tô, điện tử, bán dẫn, năng lượng tái tạo, thiết bị y tế và hàng không vũ trụ. Xuất khẩu vào các thị trường Bắc Mỹ và Nhật Bản đang tăng 50–60%, Trung Quốc 40–50% và ASEAN 35–40%, phản ánh năng lực mở rộng thị trường của doanh nghiệp Việt Nam.
Trong quá trình tham gia chuỗi cung ứng quốc tế, doanh nghiệp VASI đã chuẩn hóa nhiều hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001, IATF 16949, AS 9100D và các tiêu chuẩn môi trường – xã hội như ISO 14001, SA 8000, ISO 50001. Nhiều doanh nghiệp đã cung ứng linh kiện phức tạp cho ngành ô tô và làm chủ quy trình lắp ráp mạch in PCBA từ kỹ thuật, tạo mẫu, lắp ráp đến kiểm tra.
Doanh nghiệp cần nâng chuẩn toàn diện
Hướng đến giai đoạn 2025–2026, VASI cho biết hiệp hội đang xây dựng kế hoạch hành động tập trung tối ưu chất lượng, chi phí, giao hàng (QCD), tích hợp ESG và số hóa trong sản xuất. Hiệp hội cũng khuyến nghị doanh nghiệp quản trị chi phí, lựa chọn phân khúc khách hàng phù hợp, đa dạng hóa đối tác và mở rộng công đoạn sản xuất từ linh kiện đơn lẻ sang cụm linh kiện, áp dụng mô hình OEM, ODM và OBM.
![]() |
| Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang có dư địa tăng trưởng lớn trước bối cảnh tái cấu trúc mạnh mẽ của chuỗi cung ứng. Ảnh minh hoạ. |
Ông Nguyễn Ngọc Đăng Khoa - Phó Giám đốc phát triển kinh doanh SMC Precision, đã chỉ ra rằng chuỗi cung ứng toàn cầu đang chuyển mạnh từ “toàn cầu hóa” sang “khu vực hóa”, với chiến lược “Trung Quốc +1” thúc đẩy nhu cầu dịch chuyển sản xuất vào Việt Nam. Điều này tạo cơ hội lớn để doanh nghiệp Việt Nam trở thành nhà cung ứng cấp 2, cấp 3 cho các tập đoàn đa quốc gia.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu mới, doanh nghiệp phải đạt được mức tự động hóa và chuyển đổi số cao hơn, trong đó mô hình nhà máy thông minh 4.0 đã trở thành tiêu chuẩn. Các yêu cầu bắt buộc gồm truy xuất nguồn gốc 100% qua mã QR và hệ thống MES, kiểm soát chất lượng tự động bằng Vision System và quản lý dữ liệu thời gian thực. Các tiêu chuẩn ESG cũng trở thành điều kiện bắt buộc với yêu cầu giảm phát thải CO₂, sử dụng năng lượng tái tạo và trải qua các cuộc kiểm toán nghiêm ngặt./.
| Nguyễn Ngọc Đăng Khoa - Phó Giám đốc phát triển kinh doanh SMC Precision cho rằng, sáu trụ cột năng lực mà nhà cung cấp Việt Nam cần có, gồm năng lực công nghệ và thiết bị, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, khả năng số hóa và quản lý dữ liệu, sự ổn định giá và minh bạch tài chính, năng lực R&D hỗ trợ thiết kế – cải tiến và khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi trường. Ông Khoa cũng cho biết, doanh nghiệp trở thành nhà cung ứng cấp 1 của Samsung tại Việt Nam nhờ chủ động nâng cấp nhà máy từ năm 2021, trước khi nhận được đơn hàng đầu tiên năm 2022. |



