Đây là ý kiến của TS. Võ Trí Thành - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, khi trao đổi với phóng viên TBTCVN về động lực tăng trưởng kinh tế thời gian tới.

PV: Chỉ còn vài tuần nữa là kết thúc năm 2022, ông nhìn nhận thế nào về kết quả kinh tế Việt Nam năm vừa qua?

Động lực tăng trưởng năm 2023 trông vào đầu tư công

TS. Võ Trí Thành

TS. Võ Trí Thành: Kinh tế Việt Nam 3 quý vừa qua có mức phục hồi khá ấn tượng, thậm chí là vượt kỳ vọng trong bối cảnh đặt ra hai thách thức lớn với kinh tế vĩ mô: Một là, biến động của tình hình thế giới mà ta không thể đoán định được, như là dự báo về diễn biến cuộc xung đột Ukraine… Hai là, chúng ta thực hiện cùng lúc nhiều mục tiêu, vừa ổn định vĩ mô, vừa giảm khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển.

Đây là những mục tiêu không hề đơn giản khi cả bên ngoài và nội tại đều có những khó khăn. Mặc dù vậy, so sánh với nhiều quốc gia thì chúng ta đã đạt được sự ổn định một cách tương đối. Lạm phát tăng nhưng không phải quá mạnh. Đồng Việt Nam có mức mất giá trung bình thấp so với nhiều nước. Lãi suất tăng hơi mạnh trong tháng 10, 11 nhưng ít nhiều thì lãi suất cho vay tăng không mạnh như lãi suất huy động. Chính sách nới room tín dụng được thực hiện và có thể sẽ tiếp tục, chứ không chỉ room của năm nay.

Bên cạnh những kết quả đạt được, khi nhìn lại tôi cũng có sự tiếc nuối rằng, giá như chúng ta thực hiện được chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và mạnh hơn; nếu thực hiện được đầu tư công nhanh, mạnh hơn, kết quả phục hồi sẽ tốt hơn và đặt thêm nền tảng cho những năm sau. Hy vọng là trong quý IV này và đặc biệt là trong năm 2023, việc triển khai đầu tư công sẽ hoàn thành kế hoạch, chương trình phục hồi sẽ được triển khai nhanh hơn.

PV: Năm vừa qua chúng ta đạt kết quả tăng trưởng kinh tế khá khả quan, song cũng có nhiều khó khăn đang xuất hiện. Theo ông, đâu là vấn đề cần phải lưu ý trong điều hành kinh tế vĩ mô năm 2023?

TS. Võ Trí Thành: Kết quả phục hồi kinh tế năm 2022 khá ấn tượng, tuy nhiên đằng sau quá trình phục hồi này có một số vấn đề cần lưu ý. Từ đầu năm, chúng ta kỳ vọng triển khai chương trình phục hồi, trọng tâm là đầu tư công và nhờ tăng trưởng xuất khẩu. Song đến nay nhìn lại, động lực phục hồi 3 quý vừa qua chủ yếu là từ xuất khẩu, tiêu dùng và một phần nào đó là giải ngân vốn FDI. Tình hình này đặt ra vấn đề liệu các động lực tăng trưởng năm tới có còn tốt như năm nay hay không?

Từ cuối quý III đến nay, kinh tế đã bắt đầu xuất hiện nhiều khó khăn. Bên cạnh những áp lực rất lớn cho vĩ mô về lãi suất, tỷ giá, lạm phát, thì còn xảy ra những vụ việc không hay liên quan đến thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân hàng. Sản xuất bắt đầu gặp rất nhiều khó khăn. Đơn hàng xuất khẩu của rất nhiều lĩnh vực giảm một cách đáng kể.

Việc triển khai đầu tư công nhanh, mạnh hơn thì kết quả phục hồi kinh tế sẽ tốt hơn.
Việc triển khai đầu tư công nhanh, mạnh hơn thì kết quả phục hồi kinh tế sẽ tốt hơn.

Do dư địa của chính sách tiền tệ không còn nhiều nên gánh nặng hỗ trợ phục hồi kinh tế đang đặt lên vai chính sách tài khóa rất nhiều. Phần lớn nguồn lực cho Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội là từ chính sách tài khóa. Làm được như vậy là nhờ vị thế của tài khóa của Việt Nam tương đối tốt, kể cả trong những năm đại dịch thu, chi ngân sách vẫn được quản lý tốt, thu ngân sách có mức tăng tích cực, nợ công được kiểm soát tốt hơn. Tuy nhiên, thời gian còn lại để sử dụng nguồn lực này không còn nhiều, đòi hỏi phải thực sự là đẩy mạnh triển khai một cách quyết liệt. Nguồn thu ngân sách bắt đầu từ quý III, quý IV có dấu hiệu suy giảm và khả năng thu được tốt như những năm qua là rất khó khăn. Thế cho nên còn dư địa thì chúng ta phải cố gắng thực hiện.

Bên cạnh đó, giai đoạn tiêu dùng phục hồi mạnh sau dịch Covid-19 đã chậm lại. Đầu tư nước ngoài vẫn là một câu hỏi khi hiện nay vốn đăng ký giảm đi, dù vốn thực hiện có tăng và Việt Nam vẫn là một điểm đến được quan tâm. Do đó vai trò của đầu tư công là cực kỳ quan trọng cho triển vọng tăng trưởng thời gian tới. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh chương trình phục hồi, cần thiết thì có sự chỉnh sửa linh hoạt để triển khai.

“Bên cạnh những kết quả đạt được, khi nhìn lại tôi cũng có sự tiếc nuối rằng, giá như chúng ta thực hiện được chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và mạnh hơn; nếu thực hiện được đầu tư công nhanh, mạnh hơn, kết quả phục hồi sẽ tốt hơn và đặt thêm nền tảng cho những năm sau” - TS. Võ Trí Thành

PV: Từ ngày 5/12, nhiều thành phố ở Trung Quốc đã tiếp tục nới lỏng các chính sách phòng, chống dịch Covid-19. Theo ông, điều này có tác động thế nào đến kinh tế Việt Nam thời gian tới?

TS. Võ Trí Thành: Kinh tế Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đối với kinh tế toàn cầu, cũng như với Việt Nam. Bên cạnh là thị trường của nhiều mặt hàng nông nghiệp, thủy, hải sản và một số hàng công nghiệp, đây cũng là nơi cung cấp hàng hóa trung gian đầu vào cho rất nhiều mặt hàng Việt Nam sản xuất để xuất khẩu cũng như tiêu thụ trong nước. Năm 2021, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam hơn 2,13 tỷ USD và xếp thứ 7 trong tổng số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam.

Với những ảnh hưởng đó thì việc nới lỏng là tích cực. Theo dự báo của IMF thì năm 2023 thế giới sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể, nhưng riêng Trung Quốc năm 2023 được dự báo tốt hơn năm 2022. Đó là do sự kỳ vọng vào việc nới lỏng chính sách kiểm soát dịch Covid-19 và giải quyết tốt hơn những bất ổn trên thị trường bất động sản của Trung Quốc.

Khi kinh tế Trung Quốc tốt hơn sẽ ảnh hưởng tích cực đến kinh tế toàn cầu và tất nhiên cả Việt Nam, khi chúng ta là nền kinh tế rất mở. Tất nhiên, bên cạnh đó còn những vấn đề về chuyện cạnh tranh, về một số mặt hàng phụ thuộc nhiều vào một thị trường, hay việc phát triển công nghiệp phụ trợ…

PV: Xin cảm ơn ông!