Chiều ngày 13/1, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố trực tuyến báo cáo Điểm lại cập nhật kinh tế Việt Nam tháng 1/2022.

Tiềm năng tăng trưởng vẫn mạnh mẽ trong cả năm 2022 và 2023

Tóm tắt về tình hình kinh tế năm 2021, bà Dorsati Madani - Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB tại Việt Nam, cho biết trong năm 2021, Việt Nam chịu cú sốc kinh tế rất nghiêm trọng và tốc độ tăng trưởng kinh tế. GDP cả năm chỉ đạt 2,58%, thậm chí còn thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2020. Tuy nhiên, nền kinh tế đang phục hồi và tăng trưởng tương đối mạnh mẽ trong quý IV.

Bên cạnh đó, tình hình kinh tế đối ngoại vẫn tích cực, tuy thặng dư cán cân vãng lai đã giảm. Điều này dễ nhận thấy bởi dự trữ ngoại hối đã tăng lên đến 108 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ, phản ánh các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá Việt Nam là điểm đến đầu tư tiềm năng…

WB dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng tốc trong năm 2022
Các chuyên gia WB tại buổi công bố báo cáo trực tuyến. Ảnh chụp màn hình: LV

Về triển vọng kinh tế Việt Nam bà Dorsati cho biết, tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam vẫn mạnh mẽ trong năm 2022 và 2023. Cụ thể, năm 2022, tăng trưởng GDP được dự báo ở mức 5,5%. Dự báo này dựa trên giả định Covid-19 sẽ được kiểm soát ở trong và ngoài nước, sẽ không xảy ra đợt bùng phát dịch Covid-19 lớn nữa tại Việt Nam. Do đó, WB hy vọng nền kinh tế sẽ phục hồi tương đối mạnh mẽ, bao gồm cả cầu trong nước dù sẽ mất cả năm để phục hồi.

Theo dự đoán của WB, nhu cầu của khu vực kinh tế đối ngoại sẽ tương đối ổn định trong năm 2022, vì những đối tác thương mại chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc được kỳ vọng ​​sẽ tiếp tục tăng trưởng tương đối tốt trong năm này.

Lạm phát được dự báo sẽ ở mức khoảng 3,5 - 3,6%, vẫn dưới mức trần 4%, nhưng sẽ cao hơn một chút so với năm 2021 do nhu cầu trong nước phục hồi. Cán cân vãng lai sẽ được cải thiện và tăng trở lại, dự kiến ở mức khoảng 1,7% GDP và thâm hụt tài khóa sẽ khoảng 4,4% GDP.

“Chúng tôi cho rằng, nợ công vẫn sẽ bền vững. Thâm hụt ngân sách và nợ công được kỳ vọng ​​sẽ vẫn vững bền, với tỷ lệ nợ trên GDP dự kiến ​​là 58,8%, thấp hơn nhiều so với mức trần theo quy định” – bà Dorsati nhấn mạnh.

Đối với triển vọng trong trung hạn bà Dorsati cho biết, WB kỳ vọng về việc nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh và tăng trưởng ở mức 6,5% trong năm 2023. Thâm hụt ngân sách trong trung hạn cũng được kỳ vọng sẽ giảm, vì Chính phủ sẽ quay lại các giải pháp khắc phục thâm hụt ngân sách và nợ công cũng sẽ giảm nhẹ khi Chính phủ tăng cường củng cố thu chi ngân sách nhà nước.

Lưu ý 4 rủi ro chính với nền kinh tế

Theo WB, triển vọng trên trong ngắn hạn và trung hạn của nền kinh tế Việt Nam vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro. Theo đó, có 4 rủi ro được WB nhấn mạnh và cho rằng Chính phủ cần quan tâm.

Trước hết là tình hình đại dịch diễn biến khó lường. Các biến chủng mới có thể xuất hiện. Do đó, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện 2 giải pháp quan trọng để phòng chống dịch bệnh, đó là tiêm chủng, cùng với các biện pháp 5K mà các cơ quan chức năng đã thực hiện từ trước đến nay.

Tiếp theo, hệ quả xã hội của cuộc khủng hoảng năm vừa qua là rất nặng nề và điều này sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2022. Vì vậy, cần xem xét một số giải pháp trong thời gian trước mắt, mở rộng phạm vi và quy mô hỗ trợ tài chính để giúp đỡ người lao động và các hộ gia đình.

WB cũng khuyến khích Chính phủ xem xét tăng chi thường xuyên cho y tế và giáo dục - hai lĩnh vực thực sự đã bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng. Theo bà Dorsati, điều quan trọng là Việt Nam không những cần đánh giá lại các chương trình an sinh xã hội hiện có, mà còn phải cải thiện việc xác định các nhóm đối tượng cần hỗ trợ, phạm vi hỗ trợ, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận và hiệu quả. Để làm được điều này, cần xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về người thụ hưởng để Chính phủ có thể quản lý số người trong danh sách và những người có thể cần được hỗ trợ.

Rủi ro thứ ba là cầu tiêu dùng trong nước. Chính phủ cần khuyến khích tiêu dùng và hỗ trợ các giải pháp giúp tăng tổng cầu để đảm bảo tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững. Có một số giải pháp về thu ngân sách liên quan đến chính sách thuế như giảm thuế giá trị gia tăng và áp dụng thuế giao dịch tài chính. Chính phủ cần tăng chi thường xuyên cho y tế, giáo dục, nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án đầu tư phát triển thông qua hoàn thiện quy trình và thủ tục để tăng giải ngân vốn đầu tư công trong thời gian khủng hoảng, vì đây là trường hợp đặc biệt.

Đối với khu vực tài chính WB cho rằng, khu vực này đang phải đối mặt với rủi ro rất cao. Hiện đang có vấn đề là nợ xấu gia tăng và thực tế là sự gia tăng này có thể ảnh hưởng đến khả năng giảm chất lượng tài sản của các ngân hàng, tức là nếu có khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính, vấn đề này có thể lan sang nền kinh tế thực và trở thành khủng hoảng trong nền kinh tế thực.

Để tránh điều này, cần tăng cường tính minh bạch về tác động của đợt bùng phát dịch bắt đầu từ tháng 4 đối với nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Tiếp đó cần phải tiếp tục giám sát chặt chẽ nợ xấu và chất lượng tài sản của các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng chưa đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn từ trước đại dịch.

Bên cạnh đó, phải có một chiến lược gỡ bỏ dần dần các biện pháp hỗ trợ khi đến thời điểm, bởi vì các ngân hàng sẽ cần được hướng dẫn và chuẩn bị để có khả năng thực hiện chiến lược xử lý nợ xấu hoặc giảm dần các biện pháp giãn nợ đã áp dụng để hỗ trợ khách hàng. Và cuối cùng, cần tăng cường công tác giám sát cẩn trọng.

“Tóm lại, chúng tôi cho rằng, nền kinh tế Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ trong cả năm 2022 và 2023. Tất nhiên, điều này phụ thuộc vào việc liệu có còn đợt bùng phát dịch bệnh lớn nào có thể ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nữa hay không, cũng như sự phục hồi của nhu cầu trong nước” – bà Dorsati nhấn mạnh./.