![]() |
Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội). Ảnh: TL |
Huy động khoảng 75 - 85% từ ngân sách địa phương
Tại Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) thông tin, đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bắt đầu xây dựng từ năm 2007, tuy nhiên tiến độ triển khai chậm, không đáp ứng được nhu cầu vận tải. Đánh giá cho thấy, quá trình triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, đặc biệt là các quy định về trình tự, thủ tục đầu tư, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện.
Giám sát và kiểm tra chặt chẽ để bảo đảm sử dụng hiệu quả vốn đầu tưĐối với các dự án thực hiện đầu tư sau năm 2035, tùy theo nhu cầu vận tải, khả năng nguồn lực đầu tư và khả năng kết nối, các UBND thành phố quyết định việc triển khai dự án sớm hơn. Bộ Giao thông vận tải và 2 thành phố đã rà soát, đề xuất các cơ chế giám sát và kiểm tra chặt chẽ để bảo đảm sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, tránh tình trạng tham nhũng và lãng phí nguồn lực. |
Do đó, việc xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại hai thành phố là rất cần thiết và cấp bách để giải quyết "điểm nghẽn" về thể chế nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đầu tư hoàn thành mạng lưới đường sắt đô thị tại hai thành phố.
Theo Đề án phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, 2 thành phố đã sơ bộ tính toán nhu cầu và phương án huy động vốn để đầu tư toàn bộ mạng lưới đường sắt đô thị của hai thành phố đến năm 2045. Cụ thể, tổng nhu cầu vốn của Hà Nội là khoảng 62,25 tỷ USD; TP. Hồ Chí Minh là khoảng 67,15 tỷ USD (bao gồm chi phí vận hành khai thác, lãi vay).
Về phương án huy động vốn, trên cơ sở huy động tối đa các nguồn lực (bao gồm cả phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài), hai thành phố dự kiến huy động được khoảng 75 - 85% nguồn ngân sách địa phương cho đầu tư xây dựng toàn bộ mạng lưới đường sắt đô thị của hai thành phố đến năm 2045.
Bên cạnh đó, với định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới, trong đó phấn đấu tốc độ tăng trưởng cả nước đạt 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030, việc bố trí vốn từ nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu, dự kiến khoảng 424.850 tỷ đồng trong 10 năm là khả thi để cân đối mà không tác động lớn đến ngân sách trung ương.
Phấn đấu làm hơn 1.100 km đường sắt đô thị
Theo kế hoạch phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại TP. Hà Nội, các dự án đầu tư trước 2035 gồm: tuyến 1: Ngọc Hồi - Yên Viên - Như Quỳnh (đoạn Ngọc Hồi - Yên Viên, đoạn Gia Lâm - Dương Xá); tuyến 2: Nội Bài - Thượng Đình - Bưởi (đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo, đoạn Trần Hưng Đạo - Thượng Đình, đoạn Nam Thăng Long - Nội Bài, đoạn kéo dài đi Sóc Sơn); tuyến 2A: Cát Linh - Hà Đông - Xuân Mai (đoạn Cát Linh - Hà Đông đã đưa vào khai thác từ 6/11/2021, đoạn kéo dài đi Xuân Mai); tuyến 3: Trôi - Nhổn - Yên Sở (đoạn Nhổn - ga Hà Nội hiện đoạn Nhổn - Cầu Giấy đã đưa vào khai thác từ 8/8/2024, đoạn ga Hà Nội - Yên Sở, đoạn Nhổn - Trôi và kéo dài đi Sơn Tây); tuyến 4: Mê Linh - Sài Đồng - Liên Hà; tuyến 5: Văn Cao - Hòa Lạc; tuyến 6: Nội Bài - Ngọc Hồi; tuyến 7: Mê Linh - Hà Đông; tuyến 8: Sơn Đồng - Mai Dịch - Vành đai 3 - Lĩnh Nam - Dương Xá; tuyến vệ tinh: Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai.
Các dự án đầu tư sau năm 2035 gồm: tuyến 2: đoạn từ Trần Hưng Đạo - Chợ Mơ - Ngã Tư Sở - Hoàng Quốc Việt; tuyến 7: đoạn Mê Linh - Nội Bài; tuyến 1A: Ngọc Hồi - Sân bay thứ 2 phía Nam; tuyến 9: Mê Linh - Cổ Loa - Dương Xá; tuyến 10: Cát Linh - Láng Hạ - Lê Văn Lương - Yên Nghĩa; tuyến 11: Vành đai 2 - trục phía Nam - Sân bay thứ 2; tuyến 12: kéo dài tuyến vệ tinh từ Xuân Mai đi Phú Xuyên.
Tại TP. Hồ Chí Minh, các dự án đường sắt đô thị được đầu tư trước 2035 gồm: tuyến 1: Suối Tiên - Bến Thành - An Hạ (Bến Thành - Suối Tiên đã hoàn thành, dự kiến đưa vào khai thác từ 22/12/2024, Bến Thành - An Hạ); tuyến 2: Củ Chi - Quốc lộ 22 - An Sương - Bến Thành - Thủ Thiêm; tuyến 3: Hiệp Bình Phước - Bình Triệu - ngã 6 Cộng Hòa - Tân Kiên - An Hạ; tuyến 4: Đông Thạnh (Hóc Môn) - Sân bay Tân Sơn Nhất - Bến Thành - Nguyễn Hữu Thọ - Khu đô thị Hiệp Phước; tuyến 5: Long Trường - Xa lộ Hà Nội - cầu Sài Gòn - Bảy Hiền - Depo Đa Phước; tuyến số 6: Vành đai trong; tuyến 7: Tân Kiên - đường Nguyễn Văn Linh - Thủ Thiêm - Thảo Điền - Thanh Đa - khu công nghệ cao - Vinhomes Grand Park.
Các dự án đầu tư sau năm 2035 gồm: tuyến 8: Đa Phước - Phạm Hùng - Ngô Gia Tự - ga Sài Gòn - Công viên phần mềm Quang Trung - Hóc Môn - Bình Mỹ (Củ Chi); tuyến 9: An Hạ - Vĩnh Lộc - ga Sài Gòn - Bình Triệu; tuyến 10: Vành đai ngoài.
2 thành phố phấn đấu đến năm 2035 đưa vào khai thác 17 tuyến, đoạn tuyến đường sắt đô thị và đến năm 2045 đưa vào khai thác thêm 7 tuyến, 4 đoạn tuyến với tổng chiều dài thêm khoảng 355 km (Hà Nội phấn đấu hoàn thành đưa vào khai thác thêm 4 tuyến, kéo dài 3 tuyến với chiều dài khoảng 200 km; TP. Hồ Chí Minh, phấn đấu hoàn thành đưa vào khai thác thêm 3 tuyến với chiều dài khoảng 155 km) đảm nhận 35 - 50% thị phần vận tải hành khách công cộng 50 - 60% thị phần vận tải hành khách công cộng./.