Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vừa công bố báo cáo tóm tắt mới về mối liên hệ giữa việc làm, thương mại và các chuỗi cung ứng toàn cầu tại Việt Nam, trong khuôn khổ một cuộc đối thoại bàn tròn do Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (thuộc Ban Chính sách, chiến lược Trung ương) chủ trì.
![]() |
| Việt Nam chiếm hơn 25% trong tổng số 75 triệu việc làm gắn với các chuỗi cung ứng tại Đông Nam Á. Ảnh minh họa |
Báo cáo này phân tích vai trò ngày càng mở rộng của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng toàn cầu; đề xuất những định hướng chính sách trọng tâm để tăng cường khả năng phục hồi và tính bao trùm của chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, thúc đẩy việc làm thỏa đáng, tạo môi trường chuyển đổi công bằng cho người lao động và doanh nghiệp trong bối cảnh bất ổn thương mại toàn cầu ngày càng gia tăng.
Báo cáo cho thấy, tốc độ tăng trưởng việc làm trong các chuỗi cung ứng của Việt Nam từ năm 2008 tới nay đã ổn định. Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á có số lượng việc làm gắn với chuỗi cung ứng lớn nhất năm 2023.
Theo đó, Việt Nam chiếm hơn 25% trong tổng số 75 triệu việc làm gắn với các chuỗi cung ứng tại Đông Nam Á. Số việc làm này cũng chiếm hơn 35% tổng số việc làm quốc gia của Việt Nam, cho thấy một mức độ phụ thuộc vừa phải. Sản xuất chiếm 49% tổng số việc làm liên quan gắn với chuỗi cung ứng, trong đó việc làm trong ngành dệt may và sản phẩm dệt may chiếm gần 1/3.
Các ngành có cường độ lao động cao trong chuỗi cung ứng có xu hướng thuê dùng tỷ lệ lao động nữ và lao động trẻ lớn hơn, có số lượng việc làm công ăn lương cao hơn, nhưng tỷ lệ việc làm có kỹ năng cao vẫn còn thấp.
Hơn 76% việc làm gắn với chuỗi cung ứng vào năm 2023 phụ thuộc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhu cầu từ nước ngoài, như ASEAN, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ..., làm nổi bật mức độ tiếp xúc của quốc gia này với những nhu cầu biến động bên ngoài.
Theo ILO, để bảo đảm các kết quả đầu ra việc làm thoả đáng trong các chuỗi cung ứng, cần nỗ lực phối hợp trên nhiều lĩnh vực chính sách, nhằm giảm thiểu những gián đoạn ngắn hạn và định hình vị thế của Việt Nam trong trung hạn và dài hạn.
Những nỗ lực này bao gồm: đa dạng hoá thương mại và tăng cường liên kết công nghiệp trong nước; phát triển kỹ năng toàn diện và theo nhu cầu; chính sách thị trường lao động có đáp ứng yếu tố giới và hệ thống an sinh xã hội đáp ứng được các cú sốc trong quá trình chuyển đổi công bằng; cải thiện chất lượng việc làm và nâng cao tiêu chuẩn lao động; đối thoại xã hội có tính bao trùm và các thể chế phối hợp.
Báo cáo cho rằng, việc tăng cường khả năng phục hồi của các chuỗi cung ứng và tận dụng các lĩnh vực tăng trưởng mới mang đến cơ hội chiến lược để thúc đẩy hơn nữa quá trình chuyển đổi cơ cấu của Việt Nam, cho phép chuyển dịch sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn và việc làm có kỹ năng cao hơn. Qua đó củng cố tiến độ thực hiện chương trình nghị sự về việc làm bền vững.


