Kịch bản tăng trưởng hai con số: Chọn “tăng tốc nhanh” hay “sóng bền vững”?
Tư duy mới trong phát triển kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy tăng trưởng. Ảnh Lê Toàn

Không có chính sách đột phá, khó thoát bẫy thu nhập trung bình

Việc Việt Nam theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước. Tuy nhiên, lựa chọn con đường hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số nào cho phù hợp trong bối cảnh đất nước còn nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, khoa học - công nghệ là vấn đề cần tính toán kỹ.

Đây chính là chủ đề được các chuyên gia đầu ngành phân tích, thảo luận sôi nổi tại cuộc Tọa đàm đối thoại chính sách với chủ đề: “Định hướng và Giải pháp cho Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045”, do Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổ chức sáng 3/6.

"Bộ tứ chiến lược" là điều kiện thuận lợi thực hiện giải pháp đột phá tăng trưởng

Các ý kiến tại hội thảo đều nhận định, trong bối cảnh thực hiện "bộ tứ chiến lược" tại các nghị quyết của Đảng được ban hành gần đây, cùng với công cuộc cải cách bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính là điều kiện thuận lợi để thực hiện các giải pháp đột phá cho tăng trưởng.

Bộ máy tinh gọn cùng với tư duy mới về xây dựng hệ thống luật pháp, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế tư nhân góp phần hình thành khung khổ thể chế thuận lợi cho môi trường kinh doanh hấp dẫn. Việc sáp nhập tỉnh sẽ tháo bỏ rào cản về chia cắt nguồn lực, giúp phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Đặc biệt, tư duy mới trong phát triển kinh tế tư nhân sẽ khơi dậy và phát huy được tinh thần kinh doanh năng động, sáng tạo của khu vực này, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất.

Theo PGS.TS Phạm Thế Anh - Đại học Kinh tế Quốc dân, để đạt được tăng trưởng cao, các quốc gia Đông Á thành công đã triển khai một loạt các biện pháp đồng bộ và chiến lược. Họ xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn, tập trung ưu tiên các ngành công nghiệp then chốt thông qua chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi. Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tiếp nhận vốn và công nghệ và chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Các quốc gia này cũng linh hoạt chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thích ứng với thay đổi, duy trì chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, bao gồm kiểm soát lạm phát và quản lý tài khóa chặt chẽ.

Mỗi quốc gia còn có những chính sách đặc thù để phát huy tối đa lợi thế riêng, như Nhật Bản tập trung phát triển công nghiệp và huy động nguồn lực nội địa, Hàn Quốc ưu tiên các tập đoàn lớn, Singapore mở cửa và tận dụng vị trí địa lý, hay Trung Quốc cải thiện môi trường kinh doanh.

Tương tự các nước Đông Á trước đây, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong hơn ba thập kỷ qua chủ yếu dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu, thể hiện qua sự gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ xuất khẩu/GDP. Tuy nhiên, Việt Nam chưa thành công như các nước Đông Á là do khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế; các doanh nghiệp FDI hoạt động độc lập và ít liên kết với doanh nghiệp trong nước; doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn gia công giá trị thấp và phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên liệu.

Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng do chất lượng nguồn nhân lực thấp, nguồn lực đầu tư hạn chế và môi trường vĩ mô chưa thực sự thuận lợi, việc bứt phá trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn.

Do đó, nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

“Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay” - PGS.TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh.

Tăng trưởng cao ngay có thể gây “kiệt sức”

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, phân tích mô hình thực tại của Việt Nam, GS.TS Trần Thị Vân Hoa và nhóm nghiên cứu Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra 3 kịch bản phát triển của Việt Nam đến năm 2045, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đầu tiên là kịch bản A với mô hình “khởi động nhanh”. Kịch bản này gồm 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2029 với GDP 11%/năm, giai đoạn 2030 - 2037 với GDP 9%/năm, giai đoạn 2038 - 2045 với GDP 7 - 8%/năm. Ưu điểm của kịch bản này là tận dụng động lực ban đầu, thời gian dài điều chỉnh, nhưng áp lực lớn và có thể gây “kiệt sức” tăng trưởng trong 5 năm đầu.

Ở kịch bản B với mô hình “tăng tốc kéo dài” cũng có 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2031 với GDP 11%/năm, giai đoạn 2032 - 2038 với GDP 8,5 - 9%/năm, giai đoạn 2039 - 2045 với GDP 6,5 - 7,5%/năm. Với kịch bản này, ưu điểm là có thời gian chuẩn bị dài nên áp lực phân bổ đều, nhưng lại khó duy trì động lực tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Cuối cùng là kịch bản C với mô hình “sóng tăng trưởng”. Kịch bản này gồm 3 giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn 2025 - 2035 với 2 phân kỳ là 2025 - 2030 - phân kỳ chuẩn bị với GDP 8 - 10%/năm, 2031 - 2035 - phân kỳ tăng tốc với GDP 11 - 12%/năm. Giai đoạn 2036 - 2040 có GDP 8,5 - 9%/năm, giai đoạn 2041 - 2045 có GDP 6,5 - 7,5%/năm.

Trong các kịch bản này, GS.TS. Trần Thị Vân Hoa gợi ý lựa chọn kịch bản C, do kịch bản này có giai đoạn chuẩn bị kéo dài đảm bảo nền tảng vững chắc, cải cách toàn diện, phù hợp với chu kỳ phát triển tự nhiên, giúp giảm rủi ro "sốc tăng trưởng" và mất cân đối.

Để thực hiện theo lộ trình tăng trưởng, GS.TS. Trần Thị Vân Hoa nêu rõ, giải pháp trọng tâm là phải hoàn thiện thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo động lực cho kinh tế tư nhân phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) chất lượng cao; đồng thời là phải chuyển đổi số toàn diện, phát triển công nghiệp công nghệ cao… Điều này cần đến quyết tâm chính trị và đồng thuận toàn dân, ý chí vươn lên, tinh thần dân tộc.

Tập trung vào xuất khẩu giá trị cao để tạo lợi thế bền vững

Theo PGS.TS Phạm Thế Anh, Việt Nam có thể học hỏi sâu sắc từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao.

Bài học quan trọng đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng, và môi trường kinh doanh thuận lợi.

Việc Việt Nam dàn trải hoạt động xuất khẩu trên nhiều ngành nghề, dù có thể mang lại tổng doanh thu xuất khẩu ấn tượng, nhưng lại tiềm ẩn nhiều hạn chế và rủi ro.

Một chiến lược xuất khẩu tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao sẽ mang lại lợi ích bền vững hơn. Xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng công nghệ, kỹ năng và hàm lượng tri thức cao không chỉ tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm, mà còn giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện, từ đó cải thiện cán cân thương mại.

Hơn nữa, các ngành hàng giá trị gia tăng cao thường có lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới và chất lượng, ít bị ảnh hưởng bởi các biện pháp thuế quan và phòng vệ thương mại từ các quốc gia nhập khẩu so với các mặt hàng thô hoặc gia công đơn giản, vốn dễ bị thay thế và cạnh tranh về giá.