Luật hóa Nghị quyết 42 - mở
Việc xử lý nợ xấu không chỉ giúp giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng mà còn tăng khả năng cung cấp tín dụng. Ảnh minh họa

Tháo gỡ những “cục máu đông”

Vừa qua, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD), nhằm luật hóa những chính sách quan trọng xuất phát từ Nghị quyết số 42/2017/QH14 về cơ chế thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42).

Nghị quyết này được Quốc hội ban hành vào ngày 21/6/2017, có hiệu lực từ ngày 15/8/2017 và hết hiệu lực vào cuối năm 2023, với mục tiêu tháo gỡ những “cục máu đông” tồn đọng trong hệ thống ngân hàng, khơi thông dòng vốn tín dụng, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Cân bằng lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng

Theo đánh giá của các chuyên gia, luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, giảm phụ thuộc vào tố tụng tòa án kéo dài và tốn kém cho toàn hệ thống ngân hàng. Dự thảo kỳ vọng giảm tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, giảm áp lực trích lập dự phòng, hạ lãi suất vay, giúp doanh nghiệp và người dân dễ tiếp cận vốn. Đây là bước quan trọng bảo vệ nguyên tắc “có vay có trả”, cân bằng lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn tiền gửi của người dân.

Kể từ khi triển khai, Nghị quyết 42 đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Hệ thống các TCTD đã xử lý được khoảng 443.000 tỷ đồng nợ xấu, tương đương trung bình 5.800 tỷ đồng/tháng - mức cao vượt trội so với con số 2.140 - 2.280 tỷ đồng/tháng trước khi có Nghị quyết. Việc xử lý nợ xấu không chỉ giúp giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng mà còn tăng khả năng cung cấp tín dụng, đồng thời góp phần hạ lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh nhiều thách thức kinh tế.

Nghị quyết 42 dù mang lại nhiều kết quả tích cực nhưng vẫn tồn tại những hạn chế đáng chú ý. Trước hết, tính thí điểm với thời hạn áp dụng có giới hạn đã tạo ra khoảng trống pháp lý khi nghị quyết hết hiệu lực. Phạm vi áp dụng chỉ bao gồm nợ xấu phát sinh trước 15/8/2017, trong khi nợ mới liên tục phát sinh, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 và khó khăn kinh tế kéo dài. Bên cạnh đó, các vướng mắc pháp lý về thu giữ tài sản bảo đảm, kê biên tài sản và phối hợp thi hành án chưa đồng bộ với Bộ luật Dân sự, Luật Thi hành án dân sự, gây trở ngại thực tiễn xử lý nợ. Thêm vào đó, sau khi nghị quyết hết hiệu lực, một bộ phận khách hàng biết ngân hàng mất quyền thu giữ tài sản nên chây ì trả nợ, kéo dài thời gian xử lý.

Trước tình hình này, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng được xem là bước tiếp theo quan trọng nhằm khắc phục các hạn chế và bù đắp khoảng trống pháp lý. Dự thảo mở rộng phạm vi áp dụng cho mọi khoản nợ xấu, không giới hạn thời điểm phát sinh, từ đó xử lý cả nợ mới hiệu quả hơn. Đồng thời, tăng quyền cho TCTD bằng cách tiếp tục cho phép thu giữ tài sản bảo đảm và bổ sung quy định nhận tài sản trong trường hợp vi phạm hành chính, nâng cao hiệu quả thu hồi nợ. Quy định ưu tiên áp dụng luật tín dụng trong tranh chấp dân sự, hành chính nhằm rút ngắn thời gian xử lý. Quan trọng không kém, dự thảo luật đảm bảo minh bạch quy trình thu giữ tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền lợi người vay và hạn chế lạm dụng.

Ổn định lãi suất, hỗ trợ sản xuất

Theo đánh giá của ông Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Phân tích Khối Khách hàng cá nhân tại Chứng khoán Yuanta Việt Nam, dự thảo luật hóa Nghị quyết 42 trong kịch bản lạc quan sẽ giúp đưa tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống về dưới ngưỡng 3%. Nếu mục tiêu này thành hiện thực, tác động sẽ mang tính lan tỏa mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là mặt bằng lãi suất, khả năng cung ứng tín dụng và sức khỏe tài chính của doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Thế Minh nhận định, mặt bằng lãi suất là yếu tố đầu tiên hưởng lợi từ sự ổn định nợ xấu. Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi chậm sau đại dịch Covid-19 và tiếp tục chịu áp lực từ các cú sốc kinh tế những năm qua, việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp là điều kiện tiên quyết để hỗ trợ tăng trưởng bền vững, cũng là chủ trương xuyên suốt của Chính phủ và Bộ Chính trị. Khi tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát tốt hơn nhờ khuôn khổ pháp lý minh bạch, các ngân hàng sẽ có dư địa giữ lãi suất ổn định trong dài hạn, tạo thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn giá rẻ.

Không chỉ vậy, một hệ thống tín dụng lành mạnh với tỷ lệ nợ xấu thấp sẽ cải thiện khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực sản xuất - xuất khẩu. “Nhóm doanh nghiệp sản xuất đang đối mặt với chi phí đầu vào tăng cao và khó khăn về đầu ra, khiến nhu cầu tín dụng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp không chỉ giúp giảm gánh nặng tài chính mà còn khơi thông dòng vốn đúng hướng, qua đó thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu” - ông Minh nhấn mạnh.

Sức khỏe tài chính doanh nghiệp cũng được cải thiện rõ nét khi nợ xấu được kiểm soát hiệu quả. Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý, dòng tiền được củng cố và khả năng thanh toán nâng cao. Điều kiện thuận lợi để tái cấu trúc tài chính hoặc mở rộng đầu tư trở nên khả thi hơn, giúp doanh nghiệp không chỉ vượt qua giai đoạn khó khăn mà còn xây dựng nền tảng tài chính bền vững cho tương lai, đồng thời giảm thiểu nguy cơ phát sinh nợ xấu mới trong hệ thống.

Nhìn chung, nếu dự thảo luật hóa Nghị quyết 42 được thông qua và phát huy hiệu quả, không chỉ tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát dưới 3%, mà còn giúp giữ ổn định mặt bằng lãi suất, mở rộng tín dụng, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hồi phục và phát triển.

“Đây sẽ là tiền đề quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ và Bộ Chính trị đã đề ra, trong đó có mục tiêu tăng trưởng trên 8% năm 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2025 - 2030, góp phần nâng cao chất lượng và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn” - ông Minh nói.

Giải phóng nguồn vốn giúp doanh nghiệp phát triển

Theo ông Nguyễn Thanh Tùng - chuyên gia tư vấn đầu tư, Nghị quyết 42/2017/QH14 tạo nền tảng pháp lý minh bạch giúp cải thiện nợ xấu và tín dụng trong ngân hàng. Hiện tỷ lệ nợ xấu toàn ngành đã tăng lên 4,3%, cao hơn thời điểm ban hành nghị quyết năm 2017. Nếu thực thi hiệu quả, Nghị quyết có thể giúp giảm nợ xấu xuống dưới 3%, giải phóng nguồn vốn bị “kẹt” trong nợ và tài sản đảm bảo.

Quy trình xử lý nợ minh bạch và rút ngắn thời gian thu hồi tài sản sẽ giúp ngân hàng giảm chi phí vốn, mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - nhóm rất cần vốn phát triển. Đây là bước hỗ trợ thiết yếu cho phục hồi kinh tế từ gốc.

Nghị quyết 42 còn giúp phân bổ nguồn lực tín dụng hiệu quả hơn khi chuẩn hóa quy trình xử lý nợ trên toàn hệ thống, giúp các ngân hàng nhỏ nâng cao năng lực, giảm rủi ro chung và tạo sự phát triển đồng đều trong ngành Tài chính.