Sản xuất cao su thiên nhiên bền vững trong tương lai là hướng đi tất yếu của Việt Nam
Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Khánh Linh

Sáng 17/6, Tổ chức Forest Trends và Công ty Yulex Hoa Kỳ tổ chức Hội thảo "Thúc đẩy sản xuất cao su thiên nhiên bền vững tại Việt Nam trong tương lai" theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.

Tại hội thảo, ông Tô Xuân Phúc - chuyên gia phân tích chính sách của Tổ chức Forest Trends cho biết, Việt Nam là quốc gia lớn thứ ba trên thế giới về lượng cung cao su thiên nhiên.

"Diện tích cao su của Việt Nam năm 2021 đạt gần 939.000 ha, trong đó phần diện tích của tiểu điền chiếm khoảng một nửa. Phần còn lại là diện tích của các công ty, với diện tích của các công ty nhà nước (quốc doanh) chiếm gần 40%, công ty tư nhân chiếm gần 10%" - ông Phúc dẫn số liệu thống kê của Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRG).

Giống như một số ngành hàng nông - lâm nghiệp khác, động lực phát triển của ngành cao su của Việt Nam là dựa vào xuất khẩu. Hai mặt hàng xuất khẩu chính hiện tại của ngành bao gồm cao su thiên nhiên và sản phẩm cao su. Năm 2021 kim ngạch xuất khẩu cao su thiên nhiên từ Việt Nam đạt gần 3,3 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao su đạt 3,7 tỷ USD. Một phần trong lượng xuất khẩu từ Việt Nam, đặc biệt là trong nhóm mặt hàng cao su thiên nhiên có nguồn gốc từ cao su nhập khẩu. Chủng loại cao su thiên nhiên xuất khẩu từ Việt Nam tương đối đa dạng, trong đó cao su hỗn hợp đóng vai trò chủ đạo, chiếm gần 63% trong tổng lượng xuất khẩu.

Đánh giá nhu cầu thị trường thế giới về các cao su thiên nhiên bền vững, ông Tô Xuân Phúc cho biết thêm, tiêu thụ cao su trên thế giới đang có nhiều thay đổi. Các quy định về tính hợp pháp và bền vững đối với nguồn cao su nguyên liệu đầu vào tạo sản phẩm ngày càng chặt chẽ. Gần đây một số sáng kiến quốc tế được hình thành với mục tiêu thúc đẩy sản xuất cao su bền vững. Các bên đều cam kết sử dụng và thúc đẩy sản xuất cao su thiên nhiên bền vững.

Tuy nhiên, theo Tổ chức Forest Trends, con số diện tích cao su đạt chứng chỉ bền vững hiện còn rất hạn chế và đặc biệt Việt Nam chưa có diện tích nào đạt chứng chỉ FSC (một tiêu chuẩn tự nguyện nhằm hỗ trợ quản lý rừng có trách nhiệm trên phạm vi toàn cầu), một số hạn chế hiện nay của ngành như: Nhiều công ty cao su chưa quan tâm thích đáng tới việc sản xuất cao su có chứng chỉ; chuỗi cung hiện tại của ngành còn phức tạp, bao gồm sự pha trộn của các hợp phần đại điền và tiểu điền, của nguồn cung nội địa và nguồn cung nhập khẩu...

Tổ chức Forest Trends khẳng định, sản xuất cao su thiên nhiên bền vững trong tương lai là hướng đi tất yếu của Việt Nam. Vì vậy, để phát triển cao su thiên nhiên bền vững tại Việt Nam trong tương lai, đòi hỏi các hạn chế nêu trên cần được giải quyết thỏa đáng.

Ở góc độ hiệp hội, bà Phan Trần Hồng Vân - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội VRG cho hay, để cây cao su tiếp tục đóng góp vào sự phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện xã hội vùng nông thôn và nâng cao vai trò bảo vệ môi trường, cần có những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, sự quyết tâm thực hiện chương trình phát triển bền vững của doanh nghiệp và các tổ chức liên quan giúp ngành cao su thực hiện các tiêu chí của các hệ thống chứng nhận về quản lý và sản xuất bền vững; khuyến khích các mô hình nông lâm kết hợp áp dụng cho cây cao su với các giải pháp tiến bộ kỹ thuật, mang lại hiệu quả kinh tế, giảm thiểu rủi ro về thị trường cho người sản xuất và tạo điều kiện cho cây cao su giữ vững vai trò là cây rừng giá trị...

Các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phát triển bền vững theo pháp luật quốc gia và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; chuyển dần phương thức canh tác nông lâm tổng hợp, đa dạng hóa thu nhập, tăng hiệu quả kinh tế sử dụng đất; xây dựng các mô hình liên kết, hỗ trợ nông dân cao su tiểu điền tham gia chương trình phát triển cao su bền vững của doanh nghiệp, tạo nguồn cao su bền vững để cung cấp cho thị trường, góp phần xây dựng thương hiệu và uy tín của ngành cao su Việt Nam.../.