PV: Ông đánh giá thế nào về nhu cầu huy động vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030?
![]() |
| TS. Nguyễn Bá Hùng |
TS. Nguyễn Bá Hùng: Theo tính toán, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số giai đoạn 2026 - 2030, dự kiến tổng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tăng lên mức bình quân khoảng 40% GDP hàng năm - mức rất cao so với giai đoạn trước (30 - 33%), phản ánh nhu cầu vốn lớn cho mở rộng năng lực sản xuất, phát triển hạ tầng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở quy mô huy động vốn, mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn, vì nếu nâng cao hiệu suất sử dụng vốn, nền kinh tế có thể tạo ra sản lượng cao hơn với cùng một lượng vốn huy động được.
PV: Theo ông, những thách thức chính mà Việt Nam phải đối mặt trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính trong giai đoạn 2026 - 2030 là gì?
TS. Nguyễn Bá Hùng: Việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho phát triển, đặc biệt trong giai đoạn 2026 - 2030, cần được nhìn nhận ở 3 “công đoạn”: hiệu quả sử dụng vốn, nguồn vốn có khả năng thu hút được và hiệu quả hoạt động kết nối cung - cầu vốn của thị trường vốn - tài chính.
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam hiện còn thấp. Chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) của Việt Nam ở mức 6 - 7, tức là để ra được 1 đồng thì phải sử dụng khoảng 6 - 7 đồng vốn, cao hơn nhiều so với các nền kinh tế khác khi còn ở trình độ phát triển tương tự Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn như Hàn Quốc, Trung Quốc trước đây, ICOR chỉ khoảng 3 - 4. Nếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chúng ta có thể không cần tăng huy động vốn nhiều hơn, mà vẫn tạo ra kết quả đầu ra lớn hơn.
Hiệu quả sử dụng vốn thấp cũng ảnh hưởng đến sức hấp dẫn thu hút vốn, đặc biệt là vốn quốc tế. Điều này thể hiện ở mức độ định giá thị trường chứng khoán Việt Nam so với lợi nhuận, khi tỷ lệ giá cổ phiếu trên lợi tức cao hơn nhiều nước trong khu vực. Hiện nay, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn chưa đủ hấp dẫn để doanh nghiệp tăng trưởng được theo góc độ đó, dẫn đến có tương đối ít doanh nghiệp nội địa quy mô lớn.
| Tỷ lệ chi đầu tư đã tăng lên 32% tổng chi ngân sách nhà nước Theo Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2021 - 2025 đạt khoảng 32,2% GDP. Đặc biệt, tỷ lệ chi đầu tư đã tăng lên 32% tổng chi ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực cho các dự án hạ tầng chiến lược, trọng điểm. |
Thứ hai, Việt Nam có tỷ lệ tiết kiệm tương đối cao, cho thấy tiềm năng nguồn vốn trong nước có thể huy động được. Tuy nhiên, thị trường chưa có các sản phẩm huy động vốn linh hoạt với nhu cầu đa dạng, mà chủ yếu tập trung vào tiền gửi tiết kiệm hoặc đầu tư chứng khoán.
Thứ ba, thị trường tài chính hiện nay chủ yếu dựa vào các ngân hàng thương mại, trong khi các kênh kết nối huy động và phân bổ vốn khác như trái phiếu và dịch vụ tài chính còn sơ khai, chưa đạt được quy mô lớn và hiệu quả cao.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra là phải chuyển mạnh từ “tăng trưởng dựa vào vốn” sang “tăng trưởng dựa trên hiệu quả”, tức phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở cả khu vực công và tư nhân. Đầu tư công cần tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt, nhưng phải được triển khai nhanh hơn, chọn lọc hơn, gắn với chuẩn bị dự án tốt và rút ngắn thời gian thực hiện để tránh đội vốn, giảm hiệu quả; đồng thời sử dụng chi tiêu công, nhất là cho an sinh xã hội và đào tạo kỹ năng, để nâng năng suất.
Khu vực tư nhân cần được tạo điều kiện mở rộng quy mô, tiếp cận vốn thuận lợi với chi phí hợp lý. Môi trường đầu tư kinh doanh cần tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ, giảm chi phí tuân thủ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lớn lên về quy mô và hoạt động hiệu quả hơn, qua đó tăng sức hút huy động vốn cho nền kinh tế, nâng cao năng lực hấp thụ và sử dụng vốn.
Cùng với đó, phát triển thị trường tài chính - thị trường vốn đồng bộ, minh bạch và đa dạng hơn, giúp giảm chi phí kết nối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, đồng thời nâng cao sức hấp dẫn trong thu hút vốn quốc tế. Khi hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện, mục tiêu huy động nguồn lực lớn cho tăng trưởng cao giai đoạn 2026 - 2030 sẽ trở nên khả thi và bền vững hơn.
![]() |
| Đồ họa: Phương Anh |
PV: Chính sách tài khóa và tiền tệ đóng vai trò gì trong việc đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng hiệu quả cho mục tiêu tăng trưởng bền vững, thưa ông? Ông có khuyến nghị gì về việc điều chỉnh các chính sách này trong giai đoạn 2026 - 2030?
TS. Nguyễn Bá Hùng: Thời gian qua, chính sách tài khóa và tiền tệ phối hợp khá tốt trong việc hỗ trợ tăng trưởng. Trong bối cảnh dư địa của chính sách tiền tệ hạn chế, chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò thúc đẩy tổng cầu trong nước để tạo động lực cho tăng trưởng dài hạn.
Chính sách tài khóa thể hiện qua hoạt động sử dụng ngân sách nhà nước, nên yêu cầu quan trọng là phải nâng cao hiệu quả chi tiêu tài khóa, trước hết thông qua việc nâng cao hiệu quả đầu tư công: lựa chọn dự án tốt hơn, đẩy nhanh công tác chuẩn bị, rút ngắn thời gian triển khai và hoàn thành dự án, sớm đưa các công trình vào vận hành để kịp thời hỗ trợ hoạt động kinh tế. Bên cạnh chi đầu tư, các khoản chi thường xuyên của ngân sách cũng cần được cơ cấu lại theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội, y tế và giáo dục, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, củng cố an sinh xã hội và tạo nền tảng phát triển bền vững cho thị trường lao động.
Cùng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, chính sách tiền tệ vẫn phải bảo đảm yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh hiện tại, dư địa điều hành chính sách tiền tệ được đánh giá là tương đối thuận lợi và chưa đặt ra yêu cầu điều chỉnh lớn.
Riêng hệ thống ngân hàng tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong cung ứng vốn cho nền kinh tế, song cũng bộc lộ những thách thức nhất định. Do đó, cần tăng cường sự kết nối giữa hệ thống ngân hàng với các thị trường tài chính khác như thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ, nhằm đa dạng hóa các kênh huy động và phân bổ vốn, giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng và nâng cao hiệu quả cung ứng vốn cho nền kinh tế.
PV: Theo ông, đâu là ưu tiên quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch tài chính quốc gia trong giai đoạn 2026 - 2030? ADB sẽ hỗ trợ Việt Nam thế nào để đạt được mục tiêu này?
TS. Nguyễn Bá Hùng: Xây dựng kế hoạch tài chính quốc gia, về bản chất, là xác định rõ nguồn lực tài chính sẽ được sử dụng cho những mục tiêu ưu tiên nào. Trọng tâm của giai đoạn 2026 - 2030 là lựa chọn các dự án có hiệu quả cao và ưu tiên phân bổ nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế và giáo dục, nhằm tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững. Vì vậy, ưu tiên trong kế hoạch tài chính không chỉ nằm ở khâu lựa chọn dự án đầu tư công và các nội dung chi ngân sách, mà còn ở việc tổ chức thực hiện các dự án và hoạt động dịch vụ công một cách hiệu quả.
ADB đã có quá trình lâu dài và có thể tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam để nâng cao hiệu quả triển khai đầu tư công ở cả 2 khía cạnh: phân bổ và thực hiện. Thứ nhất, ADB hỗ trợ xác định, thiết kế và chuẩn bị dự án, giúp bảo đảm dự án được ưu tiên có chất lượng, khả thi, sẵn sàng thực hiện nhanh và mang lại hiệu quả cao. Thứ hai, ADB hỗ trợ thúc đẩy quá trình triển khai dự án hiệu quả hơn, đảm bảo các mục tiêu môi trường và xã hội, rút ngắn thời gian thực hiện...
PV: Xin cảm ơn ông!



