von

Việt Nam đang xây dựng một chiến lực thu hút FDI “thế hệ mới” nhằm đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sâu rộng.

Theo ông Phạm Minh Đức - Chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, muốn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến nhiều, có chất lượng và ở lại lâu hơn, cần phải chú trọng đến việc giải quyết tranh chấp với các nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật đầu tư quốc tế.

Cân nhắc lựa chọn FDI có chất lượng

Nhận định về tính cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút FDI, ông Jacques Morisset - Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam hiện vẫn đang rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài và số lượng vốn thu hút được trong thời gian qua đã nói lên điều đó. Các nhà đầu tư vẫn tiếp tục đến Việt Nam, lượng FDI tiếp tục được ghi nhận tăng lên và Việt Nam thu hút được nhiều FDI hơn so với các nước khác trong khu vực.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, 9 tháng năm nay, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có tăng lên, đạt ở mức 26,16 tỷ USD, tăng 3,1% (so với cùng kỳ năm 2018). Tuy nhiên, phân tích số liệu có thể thấy, số vốn mới đăng ký và vốn điều chỉnh đều giảm (giảm 19,9%). Trong đó, số vốn đăng ký mới đạt hơn 10,9 tỷ USD, giảm 22,3%; số vốn tăng thêm đạt gần 4,8 triệu USD, giảm 13,6%. Chỉ có phần vốn FDI ở dạng thứ 3 (góp vốn mua cổ phần vào các doanh nghiệp (DN) Việt Nam gia tăng tới 82,3%.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, 9 tháng năm nay, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có tăng lên, đạt ở mức 26,16 tỷ USD, tăng 3,1% (so với cùng kỳ năm 2018). Tuy nhiên, phân tích số liệu có thể thấy số vốn mới đăng ký và vốn điều chỉnh đều giảm (giảm 19,9%). Trong đó, số vốn đăng ký mới đạt hơn 10,9 tỷ USD, giảm 22,3%; số vốn tăng thêm đạt gần 4,8 triệu USD, giảm 13,6%. Chỉ có phần vốn FDI ở dạng thứ 3 (góp vốn mua cổ phần vào các DN Việt Nam gia tăng tới 82,3%.



Xét trên phương diện khác, theo ông Đinh Tuấn Việt - Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB tại Việt Nam, FDI theo định nghĩa là những nguồn đầu tư do các nguồn tiền mang từ nước ngoài vào để đầu tư cho các dự án ở nước đón nhận. Trước nay, cam kết FDI có 2 dạng: dạng cam kết mới và dạng tăng vốn bổ sung của các dự án đang hoạt động. Cách đây khoảng 2 - 3 năm nay, xuất hiện thêm hình thức mới là đóng góp cổ phần vào các DN Việt Nam. Tuy nhiên, sự phân biệt rạch ròi giữa FDI và đóng góp mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các DN Việt Nam rất khó. Khó xác định đây là FDI hay đầu tư equity (vốn chủ sở hữu) trên thị trường chứng khoán hay đầu tư góp vốn cổ phần.

Ông Việt cho rằng, tất cả các loại hình đầu tư từ nước ngoài đều rất đáng hoan nghênh. Đó là nguồn vốn bổ sung rất đáng quý cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét rủi ro, cân nhắc khi phê duyệt để đảm bảo vốn FDI có chất lượng. Chính phủ cũng đã nhận thức ra những rủi ro của rất nhiều loại hình đa dạng và mới đây, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 50 về nâng cao hơn nữa quy trình lựa chọn, giám sát, quy trình ra quyết định đối với các dự án FDI từ nay cho đến năm 2035 và xa hơn.

“Tôi nghĩ rằng với quyết định của cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam là Bộ Chính trị thì các cấp có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương sẽ có 1 quy trình lựa chọn FDI theo đúng yêu cầu đề ra, phục vụ cho lợi ích của Nhà nước và lợi ích phát triển kinh tế xã hội trong các năm tiếp theo” - ông Việt nhận định.

Tăng cường hiệu ứng lan tỏa của khối FDI

Theo ông Jacques Morisset, đối với các nhà đầu tư đến Việt Nam thì chất lượng rất quan trọng. Điều quan trọng là cần phải nhìn đến sự kết nối của khối FDI với khối DN trong nước. Xét trên phương diện mối quan hệ giữa 2 khối DN này có thể thấy rằng, hiện nay, sự kết nối giữa khu vực FDI với khu vực tư nhân trong nước hiện còn yếu. Kết nối và tăng cường hiệu ứng lan tỏa của khối FDI đối với khu vực tư nhân trong nước là rất quan trọng. Điều đó cũng thể hiện chất lượng của FDI. Chuyên gia kinh tế trưởng của WB cũng nhấn mạnh, điều này chắc chắn là vấn đề mà Chính phủ cũng đã nhìn ra và sẽ tiếp tục đưa ra các chính sách phù hợp để giải quyết được vấn đề.

Bổ sung thêm ý kiến này, ông Phạm Minh Đức cho rằng, chính sách phát triển khu vực tư nhân trong nhiều năm nay của Việt Nam rất tốt. Tuy nhiên, số lượng DN tư nhân trong nước rất lớn nhưng quy mô lại nhỏ. Việt Nam thiếu những DN tư nhân trong nước lớn làm đầu tàu để có thể dẫn dắt và kết nối (missing the middle). Do đó, cần quan tâm hơn tới việc thúc đẩy các DN nhỏ lớn lên, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất trong nước và chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tăng cường kết nối giữa khu vực FDI và tư nhân trong nước.

Đối với việc thúc đẩy FDI, cần cân nhắc không chỉ là thu hút mà phải nâng cao chất lượng của các nguồn FDI, đặc biệt là liên quan đến vấn đề công nghệ cũng như môi trường. Theo ông Đức, về lâu dài, chính sách FDI cần đảm bảo một cơ chế giải quyết tranh chấp với các nhà đầu tư theo luật pháp quốc tế.

Thời gian qua, cùng với mức độ tăng lên của dòng vốn FDI vào Việt Nam thì số lượng những vụ tranh chấp của các nhà đầu tư nước ngoài với các cơ quan chức năng về vấn đề tài nguyên, đất đai, môi trường, quản lý… cũng tăng. Tuy nhiên, năng lực quản lý nhà nước, đặc biệt là các địa phương hoặc các cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc xử lý vấn đề này còn rất hạn chế. Do đó, nếu muốn FDI đến nhiều, có chất lượng và ở lại lâu hơn thì Việt Nam cần phải nâng cao được năng lực giải quyết các vấn đề này.

Ông Đức cho biết, hiện tại WB đang làm việc với Bộ Tư pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để hỗ trợ nâng cao năng lực. Những dự án này không chỉ thúc đẩy FDI, mà còn để thực thi những cam kết trong việc giải quyết tranh chấp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài trong phạm vi các hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã ký kết và cam kết thực hiện gần đây như CPTPP và EVFTA.

Thảo Miên