Áp lực xử lý nợ xấu 1 triệu tỷ đồng, "liều thuốc” luật hoá Nghị quyết 42 liệu có đủ liều? Ngân hàng lo ngại tranh chấp, nợ xấu khó gỡ khi chưa rõ tiêu chí tài sản bảo đảm Quy định mới siết mua nợ xấu, hạn chế nắm giữ bất động sản quá 5 năm

Theo báo cáo từ Công ty cổ phần FiinRatings, tỷ lệ nợ có vấn đề, gồm cả nợ cần chú ý (nợ nhóm 2), nợ xấu (nợ nhóm 3 - 5) và các khoản nợ xấu đã được bán hoặc chuyển giao cho Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đang giảm dần trong giai đoạn 2024 đến nửa đầu năm 2025 so với mức đỉnh năm 2023.

Theo đó, nợ cần chú ý giảm cũng còn khoảng 1,3% trong nửa đầu năm 2025, so với mức gần 1,9% của năm 2024, cho thấy số lượng nợ xấu tiềm tàng đang thu hẹp. Trong khi đó, tỷ lệ xóa sổ nợ ròng trên dư nợ bình quân duy trì ổn định ở mức 1,1 - 1,2%, tương đương với năm 2023.

"Khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển nhóm sang nợ cần chú ý hoặc nợ xấu. Rủi ro này tập trung cao hơn ở các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ, có bộ đệm vốn mỏng" - FiinRatings đánh giá.

tỷ lệ nợ có vấn đề, g
Nguồn: FiinRatings.

Cũng theo FiinRatings, xu hướng trích lập dự phòng sớm hơn trong chu kỳ tín dụng được thể hiện rõ, khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cho cả nợ cần chú ý và nợ xấu tăng từ khoảng 46% lên 53% trong giai đoạn nửa đầu năm 2024 đến nửa đầu năm 2025. Điều này phản ánh các ngân hàng chủ động hơn trong việc trích lập dự phòng rủi ro.

"Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ nợ xấu điều chỉnh lại có xu hướng giảm nhẹ và vẫn thấp hơn mức đỉnh của năm 2022, cho thấy các ngân hàng đang dựa nhiều hơn vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì chỉ gia tăng trích lập dự phòng" - nhóm phân tích từ FiinRatings nhận định.

Ngay cả đối với các ngân hàng có năng lực tín dụng cao, tỷ lệ bao phủ nợ xấu và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đều giảm, cho thấy bộ đệm chống chịu rủi ro đang thu hẹp trước áp lực về chất lượng tài sản.

Bên cạnh đó, từ năm 2025, việc triển khai chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 9 đối với các ngân hàng niêm yết và doanh nghiệp nhà nước sẽ yêu cầu mô hình ước tính tổn thất dự kiến mang tính dự báo cao hơn, đồng thời tăng cường yêu cầu công bố thông tin minh bạch.

Các ngân hàng có năng lực dữ liệu và hệ thống quản trị rủi ro tốt sẽ thích ứng thuận lợi, trong khi những ngân hàng yếu hơn có thể phải gia tăng trích lập dự phòng để đáp ứng chuẩn mới.

Bên cạnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý cho VAMC và các công ty quản lý nợ (AMC), cũng như thực thi hiệu quả quy định khi luật hoá Nghị quyết 42/2017/QH14, với các quy định rõ ràng hơn về mua bán, xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm, được kỳ vọng sẽ đẩy nhanh quá trình thu hồi nợ, tạo tác động tích cực cho các ngân hàng có năng lực xử lý nợ mạnh và danh mục tài sản bảo đảm lớn, đặc biệt là bất động sản.

Ngoài ra, mức độ phân hóa về chất lượng tài sản ngày càng rõ nét. Theo FiinRatings, các ngân hàng thuộc nhóm xếp hạng cao (tương đương từ AA đến A) ghi nhận tỷ lệ nợ xấu thấp hơn, ở mức 1,3 - 2% và tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao hơn, đạt khoảng 74 - 103%. Trong khi đó, các ngân hàng thuộc nhóm xếp hạng thấp hơn (từ BB trở xuống) lại có tỷ lệ nợ xấu cao hơn, từ 5 - 6% trở lên và tỷ lệ bao phủ nợ xấu chỉ đạt khoảng 30 - 50%.

Ngoại trừ nhóm ngân hàng có xếp hạng cao, phần lớn các nhóm còn lại đều ghi nhận sự suy giảm trong tỷ trọng vốn cấp 1 trong cơ cấu vốn, phản ánh cấu trúc vốn đang yếu đi, đặc biệt là ở nhóm ngân hàng có mức xếp hạng trung bình và thấp (từ BBB trở xuống). Xu hướng này, cùng với sự sụt giảm về khả năng sinh lời, có thể tiếp tục làm suy yếu nền tảng vốn của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới./.