| Ảnh minh họa: VGP |
Phong trào “Bình dân học vụ số” được Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cụ thể hóa tại Kế hoạch số 01-KH/BCĐTW năm 2025, xác định đây là phong trào mang tính quốc gia, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân. Các mục tiêu chủ yếu được nêu rõ: hàng chục triệu người trưởng thành được xác nhận đạt “phổ cập tri thức về chuyển đổi số, kỹ năng số” trên nền tảng định danh điện tử VNeID; 100% người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã được trang bị kiến thức, kỹ năng số cơ bản để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh; mạng lưới tổ công nghệ số cộng đồng và đại sứ số được củng cố, mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Để đáp ứng các mục tiêu đó, Kế hoạch nhấn mạnh đặc biệt đến vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trước hết - những người trực tiếp làm công tác tham mưu, tổ chức và hướng dẫn Nhân dân học tập trên nền tảng số.
Về phương diện thể chế, Kế hoạch số 01-KH/BCĐTW giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành trung ương và địa phương. Trong đó, Bộ Nội vụ được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức triển khai phong trào đối với nhóm đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong khu vực công; đồng thời lồng ghép nội dung “Bình dân học vụ số” vào các chương trình, đề án về cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ và chuyển đổi số do Bộ Nội vụ chủ trì. Các bộ, ngành khác như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo… đã ban hành kế hoạch hành động hưởng ứng, trong đó điểm chung đều nhấn mạnh yêu cầu bồi dưỡng, cập nhật kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ, công chức của ngành mình, coi đây là điều kiện tiên quyết để phong trào đi vào thực chất.
Có thể thấy rõ một bước phát triển về tư duy: nếu như phong trào Bình dân học vụ năm 1945 đặt trọng tâm vào việc “toàn dân học chữ, toàn dân dạy chữ”, dựa rất nhiều vào lực lượng trí thức và giáo viên, thì Bình dân học vụ số yêu cầu mỗi cơ quan nhà nước, mỗi địa phương và từng đơn vị cơ sở phải trở thành một “trung tâm học tập số”, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò nòng cốt. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa là cơ hội để hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức - từ trung ương đến địa phương - đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức, gắn chặt với yêu cầu xây dựng chính quyền số, chính quyền địa phương 2 cấp kể từ ngày 01/7/2025.
Việc tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp làm cho cấp xã trở thành “tuyến đầu” trong cung ứng dịch vụ công, tương tác với người dân và triển khai chuyển đổi số ở cơ sở. Trong thực tế, hầu hết các hoạt động của phong trào Bình dân học vụ số, từ việc thành lập tổ công nghệ số cộng đồng, tổ chức lớp học cho người cao tuổi, nông dân, người lao động phi chính thức đến hỗ trợ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, định danh điện tử, đều diễn ra tại thôn, tổ dân phố, xã, phường. Điều đó khiến yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết: họ phải là những người “biết trước, hiểu sâu, làm thành thạo” về công nghệ số thì mới có thể “cầm tay chỉ việc” cho người dân, nhất là trong bối cảnh nhiều địa bàn miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn không ít khoảng trống về hạ tầng và kỹ năng số.
| Ảnh minh họa: VGP |
Thực tiễn triển khai phong trào trên phạm vi toàn quốc thời gian qua cho thấy, ở những địa phương quan tâm đúng mức đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thì phong trào nhanh chóng lan tỏa sâu rộng, tạo được sự đồng thuận của người dân. Tại Hà Nội, Thành ủy, UBND thành phố đã ban hành kế hoạch triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số”, coi đây là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thành phố chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Nội vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức…; đồng thời củng cố mạng lưới tổ công nghệ số cộng đồng đến từng tổ dân phố, thôn, xóm. Cách làm này giúp đội ngũ cán bộ cấp cơ sở không chỉ nắm vững các nền tảng số như Cổng dịch vụ công, VNeID, các ứng dụng thanh toán, mà còn rèn luyện kỹ năng hướng dẫn, đưa ngôn ngữ công nghệ sang ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu với người dân.
Nhiều địa phương đã triển khai phong trào Bình dân học vụ số gắn với mô hình tổ công nghệ số cộng đồng một cách sáng tạo. Tại phường Trung Sơn (tỉnh Ninh Bình), 30 tổ công nghệ số cộng đồng được thành lập theo quyết định của UBND phường; mỗi tổ gồm tổ trưởng và các tổ viên là cán bộ tổ dân phố, đại diện các đoàn thể, được tập huấn kỹ năng cơ bản để hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, tra cứu thông tin, cài đặt ứng dụng, truy cập các nền tảng số. Không chỉ dừng ở việc “dạy thao tác”, các tổ này còn trở thành kênh thông tin hai chiều, giúp chính quyền nắm bắt nhu cầu, khó khăn của người dân để điều chỉnh cách tuyên truyền, cách thiết kế tài liệu, giáo trình cho phù hợp từng nhóm đối tượng. Rõ ràng, nếu cán bộ tổ dân phố, cán bộ phường không được đào tạo, bồi dưỡng bài bản về chuyển đổi số và kỹ năng sư phạm, mô hình này sẽ khó phát huy đầy đủ hiệu quả.
Ở vùng núi, nơi điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, phong trào Bình dân học vụ số càng cho thấy rõ vai trò then chốt của chính quyền cơ sở và đội ngũ công chức, viên chức. Tại một xã vùng cao Xuân Lãnh (tỉnh Đắk Lắk), chính quyền địa phương xác định lực lượng tiên phong trong phong trào phải là cán bộ, công chức, viên chức, những người cần được tập huấn trước về chuyển đổi số, sau đó mới đến lực lượng tổ công nghệ số cộng đồng. Địa phương này tổ chức 13 tổ công nghệ số cộng đồng, coi đây là “cánh tay nối dài” của chính quyền trong 100 ngày cao điểm, với mục tiêu không chỉ hướng dẫn người dân sử dụng điện thoại thông minh, ứng dụng dịch vụ công, mà còn hình thành thói quen làm việc, giao dịch trên môi trường số. Kinh nghiệm này cho thấy, đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã về chuyển đổi số, kỹ năng hướng dẫn cộng đồng chính là “điểm khởi động” quan trọng để phong trào đi vào chiều sâu.
Tại nhiều địa phương khác, phong trào Bình dân học vụ số cũng được tổ chức gắn với nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập, xóa mù chữ, duy trì và nâng cao kết quả phổ cập giáo dục. Ở Thanh Hóa, tỉnh tổ chức lễ phát động phong trào Bình dân học vụ số cấp tỉnh, giao nhiệm vụ cụ thể cho chính quyền cấp xã, phường trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí cán bộ và huy động các lực lượng đoàn thể tham gia; trong đó nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động của tổ công nghệ số cộng đồng, hướng đến mục tiêu xây dựng “xã hội số học tập suốt đời”. Tại Bắc Ninh, Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh triển khai tới 385 đội hình “Bình dân học vụ số” trên địa bàn, trong đó các thành viên đội hình được tập huấn để hướng dẫn người dân nhận biết các hình thức lừa đảo, tin giả trên mạng xã hội, góp phần bảo đảm an toàn không gian mạng cho người dân. Phú Thọ, Tuyên Quang, nhiều huyện miền núi phía Bắc cũng ghi nhận những mô hình lớp học “Bình dân học vụ số” do đoàn viên, thanh niên phối hợp với chính quyền cơ sở tổ chức, qua đó lan tỏa tri thức số đến từng bản làng.
Ở trung ương, các bộ, ngành đã ban hành kế hoạch hành động chi tiết, gắn nhiệm vụ triển khai phong trào với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong ngành. Quyết định số 550/QĐ-BKHCN năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ nêu rõ yêu cầu “tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên” trong triển khai phong trào Bình dân học vụ số; yêu cầu các đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết, bồi dưỡng nhân lực thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số được giao. Quyết định số 440/QĐ-BXD năm 2025 của Bộ Xây dựng ban hành Kế hoạch hưởng ứng phong trào, đặt mục tiêu nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành, coi đây là điều kiện bắt buộc để vừa tham gia phổ cập kỹ năng số cho Nhân dân, vừa ứng dụng công nghệ số trong quản lý đô thị, xây dựng, nhà ở, thị trường bất động sản. Những yêu cầu này, nếu được lồng ghép vào các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng theo chức danh, bồi dưỡng chuyển đổi số cho công chức, viên chức, sẽ góp phần hình thành một thế hệ cán bộ “thông thạo thể chế, thành thạo số hóa”.
Phong trào Bình dân học vụ số gắn chặt với việc xây dựng các nền tảng học tập trực tuyến mở, với vai trò không nhỏ của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, chuyên gia trong hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Nền tảng binhdanhocvuso.gov.vn được xây dựng như một “trường học số mở” cho toàn dân, với các khóa học đa dạng do các bộ, ngành phối hợp triển khai, từ kỹ năng sử dụng dịch vụ công, an toàn thông tin đến các kỹ năng nghề nghiệp thiết yếu. Để nền tảng này thực sự phát huy vai trò, cần sự tham gia của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức: thiết kế chương trình, biên soạn tài liệu, tổ chức lớp học trực tuyến, đánh giá kết quả học tập. Qua đó, quá trình bồi dưỡng cán bộ không chỉ dừng lại ở “học để làm việc trong cơ quan nhà nước”, mà còn mở rộng sang “học để phục vụ cộng đồng”, biến mỗi công chức, viên chức thành một đại sứ công nghệ số ở nơi mình công tác, sinh sống.
Có thể nhận thấy, ít nhất ba yêu cầu lớn đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức trong bối cảnh triển khai phong trào Bình dân học vụ số và mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Thứ nhất, phải xây dựng chuẩn năng lực số đối với từng nhóm vị trí việc làm, nhất là công chức cấp xã - những người hàng ngày tiếp xúc, hướng dẫn người dân thực hiện dịch vụ công và sử dụng nền tảng số. Chuẩn năng lực này cần được thể chế hóa, gắn với tiêu chí tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm, đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức. Thứ hai, nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải được “số hóa”, cập nhật thường xuyên, gắn với thực tiễn phong trào Bình dân học vụ số ở cơ sở: không chỉ dạy thao tác kỹ thuật, mà còn chú trọng kỹ năng truyền thông, kỹ năng giải thích chính sách, kỹ năng xử lý tình huống trên môi trường số. Thứ ba, phương thức bồi dưỡng cần linh hoạt, kết hợp giữa tập trung và trực tuyến, giữa lý thuyết và thực hành tại cộng đồng, để mỗi công chức, viên chức có cơ hội “học đi đôi với làm” ngay trong quá trình tổ chức phong trào.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chính quyền địa phương. Những mô hình thiết thực như lớp tập huấn cho 72 tổ công nghệ số cộng đồng tại xã Bảo Hà (tỉnh Lào Cai); các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về chuyển đổi số cho cán bộ, công chức tại nhiều xã miền núi phía Bắc do địa phương phối hợp với các đơn vị chuyên môn tổ chức, cho thấy khi công tác đào tạo, bồi dưỡng được thiết kế gắn chặt với nhu cầu thực tế của phong trào, hiệu quả mang lại rất rõ nét: người dân hứng khởi học tập, tổ công nghệ số cộng đồng hoạt động đều tay, chính quyền cơ sở nắm bắt tốt hơn yêu cầu của chuyển đổi số. Những bài học đó cần được tổng kết, nhân rộng, lồng ghép vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng chính thức ở cả cấp trung ương và địa phương.
Nhìn tổng thể, phong trào Bình dân học vụ số không chỉ là một chiến dịch tuyên truyền hay một chương trình kỹ thuật, mà là một “đề án nguồn nhân lực số” quy mô toàn quốc, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là cấp xã trong mô hình chính quyền 2 cấp, vừa là đối tượng được bồi dưỡng, vừa là lực lượng tổ chức thực hiện. Từ tinh thần “toàn dân học chữ, toàn dân dạy chữ” năm 1945 đến khát vọng “toàn dân học số, toàn dân làm chủ không gian số” hôm nay, cơ chế vẫn là đặt người dân, người lao động, và trước hết là đội ngũ cán bộ, công chức vào vị trí trung tâm. Nếu biết tận dụng phong trào Bình dân học vụ số như một “phòng thí nghiệm lớn” để thử nghiệm, hiệu chỉnh và nâng tầm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, chúng ta không chỉ xóa được “mù số” cho hàng chục triệu người dân, mà còn góp phần hình thành một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ, đủ năng lực dẫn dắt quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Trong ý nghĩa đó, phong trào Bình dân học vụ số có thể xem là một “điểm hội tụ” giữa lịch sử và hiện tại, giữa xây dựng xã hội học tập và xây dựng xã hội số, giữa cải cách hành chính và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặt trong bối cảnh chính quyền địa phương 2 cấp đang từng bước đi vào vận hành, việc xác lập rõ ràng vai trò, trách nhiệm và yêu cầu mới đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức - nhất là cấp xã, không chỉ là đáp ứng một phong trào cụ thể, mà còn là đầu tư cho tương lai lâu dài của nền hành chính quốc gia. Đây cũng là thông điệp xuyên suốt mà các cơ quan tổ chức nhà nước, các cơ sở đào tạo cán bộ và đội ngũ những người làm công tác nhân sự, tổ chức cần tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa trong thời gian tới, để “Bình dân học vụ” trong thời đại số thật sự trở thành một chương trình đổi mới sâu rộng về tri thức, kỹ năng và phương thức hoạt động của bộ máy công quyền./.

