PV: Một số ý kiến cho rằng, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, ông nhìn nhận thế nào về ý kiến này?
TS. Nguyễn Văn Hiến: Một số nghiên cứu cho thấy, Việt Nam có nguy cơ rất lớn rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2024, Việt Nam thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, GDP bình quân đầu người khoảng 4.300 - 4.500 USD. Tăng trưởng kinh tế trong 30 năm qua duy trì bình quân hơn 6%/năm, động lực chủ yếu đến từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), gia công xuất khẩu và lao động giá rẻ, năng suất lao động của Việt Nam còn khá thấp.
Cùng với đó, năng lực đổi mới sáng tạo còn rất thấp, chủ yếu nhập khẩu công nghệ, tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) dưới 1% GDP; cơ cấu kinh tế còn khá lạc hậu: khu vực công nghiệp phụ trợ yếu, giá trị gia tăng thấp; dân số đang già hóa nhanh, nguy cơ “già trước khi giàu”. Những thực trạng nêu trên nếu không có những cải cách bứt phá, Việt Nam sẽ có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong 5 - 10 năm tới.
Cần “bùng nổ” đầu tư công nghệ - hạ tầng, phấn đấu tăng trưởng 2 con số. Ảnh: TL. |
Tuy nhiên, khi phân tích năng lực nội tại, nền kinh tế Việt Nam cũng có những lợi thế nhất định để thoát bẫy thu nhập trung bình so với các quốc gia đã mắc phải. Đó là, Việt Nam có nền chính trị ổn định, hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng có hiệu quả, vị trí địa chính trị - kinh tế thuận lợi, dân số đông hơn 100 triệu với thị trường nội địa lớn, lực lượng lao động dồi dào (thời kỳ dân số vàng). Bên cạnh đó, còn có nhiều bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác.
PV: Vậy theo ông, Việt Nam làm thế nào vượt lên bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước phát triển?
TS. Nguyễn Văn Hiến: Theo tôi, thời gian tới, Nhà nước cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa về thể chế, chính sách một cách đồng bộ để hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân như Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã ban hành.
Đồng thời, giải phóng năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung vào tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Theo đó, một số giải pháp trọng tâm mang tầm chiến lược cần triển khai quyết liệt và đồng bộ gồm: Đầu tư phát triển mạnh vào khoa học công nghệ, thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo, xây dựng một nền kinh tế số tinh gọn, hiệu quả... nhằm tạo ra sự đột phá về năng suất lao động trong thời gian ngắn.
![]() |
TS. Nguyễn Văn Hiến |
Tập trung sức nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhân lực, đặc biệt nhân lực công nghệ cao, nhân lực các ngành công nghệ lõi như chíp, bán dẫn... đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế.
Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp nội địa có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Trong 10 - 15 năm tới, Việt Nam cần phải hình thành được hàng chục tập đoàn kinh tế có năng lực về khoa học công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới.
PV: Để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số đã đề ra, cần những giải pháp cụ thể nào, thưa ông?
TS. Nguyễn Văn Hiến: Đầu năm 2025, Chính phủ đã đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 là trên 8% và các năm tiếp theo là tăng trưởng 2 con số, nghĩa là trên 10%.
Trong 6 tháng đầu năm 2025, kinh tế đã đạt con số tăng trưởng 7,52%, như vậy có thể nói năm 2025, Việt Nam sẽ về đích so với mục tiêu. Tuy nhiên, việc phấn đấu từ năm 2026 để đạt tốc độ tăng trưởng trên 10% lại là câu chuyện khác.
Lịch sử kinh tế thế giới cho thấy chỉ có rất ít quốc gia có thể đạt được con số tăng trưởng GDP trên 10%, trong đó nổi bật có một số quốc gia khu vực châu Á như Trung quốc, Hàn Quốc, Singapore.
Đối với Việt Nam, viễn cảnh kinh tế tăng trưởng trên 10% từ năm 2026 thì kịch bản sẽ như sau: GDP đạt khoảng 1.200 - 1.300 tỷ USD vào năm 2035, vượt xa Malaysia, tiệm cận Hàn Quốc giai đoạn 1990.
Do vậy, điều kiện cần để đạt được các con số ấn tượng trên là “bùng nổ” đầu tư công nghệ - hạ tầng: Hoàn thành mạng lưới cao tốc, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trung tâm logistics quốc tế, trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm dịch vụ quốc tế ở các đô thị lớn. Năng suất lao động tăng khoảng 7 - 8%/năm nhờ ứng dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo, robot hóa, công nghiệp 4.0.
Cải cách đột phá toàn diện về công nghệ - thể chế - nhân lực - hạ tầng Theo TS. Nguyễn Văn Hiến, khả năng để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số từ năm 2026 và các năm tiếp theo là rất thách thức, nhưng không phải bất khả thi nếu có những cải cách đột phá toàn diện về công nghệ - thể chế - nhân lực - hạ tầng. Trong thực tiễn, mục tiêu tăng trưởng hợp lý hơn là khoảng 8 - 9%/năm một cách bền vững, nhưng việc hướng tới một vài năm đặc biệt đạt 10% sẽ tạo “cú hích” giúp Việt Nam bước vào nhóm nước công nghiệp mới và trở thành một “con rồng về kinh tế” mới ở khu vực châu Á. |
Phát triển doanh nghiệp nội địa lớn mạnh, có ít nhất 10 tập đoàn tư nhân tầm cỡ khu vực và thế giới; thị trường xuất khẩu bứt phá, tận dụng tối đa các khu vực tự do mậu dịch mà Việt Nam đã ký kết FTA, phát triển mạnh ngành công nghệ số, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử. Ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4%, nợ công dưới 60% GDP.
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển theo kịch bản trên, theo tôi cần quyết liệt thực hiện các giải pháp chiến lược sau: Đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ dựa vào lao động giá rẻ phục vụ khu vực FDI sang mô hình phát triển: sáng tạo - công nghệ - doanh nghiệp nội địa; phát triển các ngành mũi nhọn: công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, bán dẫn, logistics hiện đại.
Nâng cao năng suất lao động, cải cách giáo dục đại học, dạy nghề gắn với nhu cầu thị trường; đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển R&D, tăng chi cho khoa học công nghệ lên ít nhất 2% GDP; thu hút chuyên gia quốc tế, chính sách “talent mobility” cho nhân tài Việt Nam ở nước ngoài.
Phát triển doanh nghiệp nội địa, xây dựng chính sách “Make in Vietnam” để hình thành tập đoàn công nghệ quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và quỹ đầu tư mạo hiểm.
Cải cách thể chế và hạ tầng mềm, cải cách thủ tục hành chính, môi trường đầu tư minh bạch; ứng dụng Chính phủ số, dữ liệu mở, blockchain trong quản lý công; phát triển thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp) để giảm phụ thuộc tín dụng ngân hàng.
Phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn, giảm phát thải carbon để đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu; tận dụng vị trí địa chính trị để trở thành trung tâm sản xuất, logistics của Đông Nam Á.
PV: Xin cảm ơn ông!