PV: Liên quan đến từ khóa là “động lực”, trong báo cáo 70% doanh nghiệp coi tuân thủ pháp lý là động lực chính, trong khi chỉ một số ít nhìn thấy lợi ích trực tiếp từ tài chính xanh. Theo ông, nguyên nhân của khoảng cách này là gì, và điều đó phản ánh mức độ sẵn sàng cũng như rào cản của doanh nghiệp ra sao?

Ông Nguyễn Hoàng Nam: Trước tiên, tôi nhận thấy kết quả khảo sát cũng phản ánh đúng bối cảnh của Việt Nam.

Chúng ta cũng biết là Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của quá trình đưa các cam kết ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) vào thực tiễn, nên mức độ trưởng thành cũng chưa quá cao. Trên cơ sở đó, tôi nghĩ rằng ưu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam là tìm cách tiếp cận các nguồn tài chính bền vững, tài chính xanh. Lợi thế của nguồn tài chính bền vững và tài chính xanh chính là chi phí vốn thấp nhưng đổi lại doanh nghiệp phải đáp ứng được tiêu chuẩn, yêu cầu. Tôi hy vọng với tín hiệu tích cực hiện nay, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục hành động mạnh mẽ hơn để tận dụng tốt các nguồn lực tài chính xanh và bền vững.

PV: Tại châu Âu, hiện các cơ quan quản lý đã giám sát vấn đề thực thi ESG rất chặt chẽ. Việt Nam hiện chưa có khung pháp lý tương đương. Việc này có ảnh hưởng thế nào đến động lực và tốc độ triển khai ESG tại Việt Nam, thưa ông?

Ông Nguyễn Hoàng Nam: Việt Nam là một nước xuất khẩu với quy mô lớn vào các cái thị trường chính như châu Âu, Mỹ và khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, những yêu cầu ESG từ các thị trường này chắc chắn tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

Doanh nghiệp mong được tiếp cận nguồn tài chính xanh để thực hành ESG
Ông Nguyễn Hoàng Nam

Tôi nhận thấy rằng, với kết quả khảo sát vừa rồi, các doanh nghiệp đã nhận diện ra được những rủi ro lẫn cơ hội, đồng thời bắt đầu thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ trong việc thực hành ESG để đáp ứng được những yêu cầu của các thị trường này.

Tôi tin rằng, với định hướng như vậy, Việt Nam sẽ tiếp tục thay đổi để duy trì lợi thế cạnh tranh trên các thị trường quốc tế.

PV: Ông có thể làm rõ thêm về vai trò của các bên như là tổ chức tư vấn, các định chế tài chính và cơ quan nhà nước sẽ cần phối hợp như thế nào để thúc đẩy lộ trình ESG và hệ sinh thái ESG tại Việt Nam?

Ông Nguyễn Hoàng Nam: Tôi nghĩ các tổ chức này có thể hỗ trợ các doanh nghiệp ở ba khía cạnh chính. Trước hết là nâng cao nhận thức và phương pháp triển khai ESG.

Thứ hai, xây dựng cơ chế về ưu đãi để tạo động lực, giúp doanh nghiệp đủ điều kiện thực hành ESG, vừa đáp ứng cam kết quốc gia vừa vươn ra thị trường quốc tế.

Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn trong vấn đề lập báo cáo theo khung quốc tế, đảm bảo dữ liệu đầy đủ và đáng tin cậy. Nếu có thể, nên thuê các tổ chức kiểm toán để đảm bảo độ tin cậy cho các đối tác.

PV: Doanh nghiệp đối diện với thách thức gì trong quá trình thực hành ESG? Doanh nghiệp có đề xuất, mong muốn gì, thưa ông?

Ông Nguyễn Hoàng Nam: Ấn phẩm năm 2022 chúng tôi tập trung vào đánh giá mức độ cam kết và tính sẵn sàng thực hành ESG. Còn ấn phẩm lần này chúng tôi tập trung nhiều hơn vào tiến trình thực hành ESG tại Việt Nam đến thời điểm hiện tại. Kết quả khảo sát cho thấy một vài dấu hiệu rất tích cực.

Doanh nghiệp mong được tiếp cận nguồn tài chính xanh để thực hành ESG

Doanh nghiệp trao đổi mong được tiếp cận nguồn tài chính xanh để thực hành ESG. Ảnh: Đức Thanh

Trước hết là về sự gia tăng và tính cam kết thực hành ESG của các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta đã tăng lên 89%. Doanh nghiệp cho biết họ đã, đang triển khai hoặc trong 2 - 4 năm tới có kế hoạch triển khai cụ thể để thực hành ESG. Đây là điểm nổi bật đầu tiên.

Điểm thứ hai, với mức độ cam kết cao như vậy, chúng tôi nhận thấy có ba đến bốn động lực quan trọng thúc đẩy thực hiện cam kết này. Thứ nhất, 70% doanh nghiệp tham gia của sát cho rằng đó là nhằm đáp ứng yêu cầu tuân thủ pháp luật và các cam kết của Việt Nam. Thứ hai, động lực đến từ việc đáp ứng yêu cầu của các đối tác chính. Bên ngoài là khách hàng, các nhà đầu tư, các định chế tài chính; bên trong là ban lãnh đạo và đội ngũ nhân viên. Động lực thứ 3 mà chúng tôi nhận thấy rất là quan trọng đó là mong muốn tiếp cận nguồn tài chính xanh và tài chính bền vững. Đó là về tính cam kết.

Phần thứ hai mà tôi thấy rất quan trọng trong khảo sát lần này là thu hẹp khoảng cách giữa cam kết và thực hành ESG tại Việt Nam.

Doanh nghiệp mong muốn các tổ chức tư vấn, định chế tài chính tiếp tục hỗ trợ trong việc nâng cao nhận thức, chuyên môn về thực hành phát triển bền vững, cũng như trong lập và triển khai báo cáo phát triển bền vững. Đồng thời, họ mong muốn tiếp cận các nguồn vốn xanh và bền vững từ các định chế tài chính quốc tế, và sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu từ những tổ chức này trong quá trình thực hành ESG.

Dấu hiệu tích cực thứ ba mà chúng tôi nhận thấy là các doanh nghiệp mong muốn tiếp tục thúc đẩy mức độ trưởng thành ESG tại Việt Nam. Chúng ta cũng biết, trong thời gian qua, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi thực hành ESG. Và chúng ta vẫn đang có nhiều hành động để tích cực hơn nữa, để tiếp tục thúc đẩy, từ đó đáp ứng được các yêu cầu của thị trường quốc tế.

Song song với đó, kết quả thảo sát này chỉ ra một vài thách thức quan trọng trong quá trình thực hành ESG. Thứ nhất, ở Việt Nam hiện chưa có quy định bắt buộc hay khung pháp lý cụ thể, mà phần lớn các doanh nghiệp sẽ vẫn dùng những khung báo cáo phát triển bền vững trên thế giới.

Thứ hai, thách thức lớn nằm ở chuyện thu thập các cơ sở dữ liệu cho báo cáo phát triển bền vững. Báo cáo này tích hợp nhiều lĩnh vực trong doanh nghiệp, nên cần thời gian để thu thập thông tin, dữ liệu, đánh giá, đo lường, và quan trọng là đảm bảo độ tin cậy. Vấn đề dữ liệu sẽ là yếu tố then chốt trong thời gian tới, đòi hỏi doanh nghiệp tích cực thay đổi để bảo đảm độ tin cậy tốt hơn.

Một nhận xét khác chúng tôi thấy từ khảo sát này liên quan đến nguồn nhân lực ESG Việt Nam đang ở giai đoạn đầu, do đó cần tích cực hơn nữa trong đào tạo, nâng cao nhận thức của nguồn nhân lực. Qua đó, nhân sự có thể đánh giá rủi ro và cơ hội ESG, rồi tích hợp vào chiến lược vận hành một cách hiệu quả nhất.

Ngoài ra, các doanh nghiệp tham gia khảo sát cũng đưa ra đề xuất mong muốn tiếp tục thực hành ESG phù hợp với cam kết của Việt Nam với thế giới, đồng thời kỳ vọng có thêm chính sách ưu đãi hỗ trợ cho những doanh nghiệp thực hành ESG. Những ưu đãi này có thể đến từ chính sách nhà nước, chính sách thuế, chính sách tài chính xanh và bền vững, nhằm tạo nguồn vốn ưu đãi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận./.

PV: Xin cảm ơn ông!