Theo đó, khi làm thủ tục hải quan xuất khẩu, tái xuất đối với hàng hóa thuộc Phụ lục CITES, doanh nghiệp (DN) thực hiện như sau:

Trường hợp Giấp phép CITES được cấp bản giấy: DN nộp 01 bản chụp có xác nhận của DN cho cơ quan hải quan và xuất trình bản chính Giấp phép CITES để cán bộ hải quan xác nhận số lượng hàng hóa thực xuất vào ô số 14 của Giấp phép CITES.

Chi cục Hải quan sao gửi 1 bản Giấy phép đã xác nhận về Cơ quan quản lý CITES theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 82/2006/NĐ-CP và trả bản chính cho DN để làm thủ tục ở nước nhập khẩu.

Trường hợp Giấp phép CITES được cấp trên Cổng thông tin một cửa quốc gia: DN không phải nộp 1 bản chụp Giấp phép CITES cho cơ quan hải quan.

Giấy phép CITES, chứng chỉ CITES là giấy tờ do Cơ quan quản lý CITES Việt Nam cấp để xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển mẫu vật các loài động vật, thực vật quy định tại các Phụ lục của Công ước CITES.

Giấy phép do Cơ quan quản lý CITES Việt Nam cấp để xuất khẩu mẫu vật các loài động vật, thực vật nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của pháp luật Việt Nam, không quy định tại các Phụ lục của Công ước CITES.

Ở Việt Nam, để bảo vệ các loài động thực vật hoang dã, đặc biệt là các loài động thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, đồng thời cũng để phối hợp có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong việc kiểm soát và điều chỉnh việc buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, ngày 15/1/1994, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 121 tham gia công ước này. Hiện đã có khoảng 140 nước tham gia công ước CITES./.

Ngọc Linh