Người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường

Tại cuộc Tọa đàm: “Thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái" do Báo Tiền Phong phối hợp với Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức mới đây, ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường cho biết, nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.

Tại Việt Nam, hệ thống pháp lý về nhãn xanh được hình thành từ Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014 và hoàn thiện trong Luật 2020. Năm 2009, chương trình thí điểm được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm: Sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường (gồm túi phân hủy và túi tái chế).

Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tích hợp các quy định về nhãn sinh thái thành một hệ thống thống nhất - nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Đáng chú ý, các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đây được coi là bước tiến quan trọng, kì vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững.

Ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường
Người Việt Nam đã ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường. Ảnh: TL
Theo báo cáo, sản phẩm nhãn xanh được triển khai từ năm 2009-2017, có 112 sản phẩm được chứng nhận. Từ sau Luật bảo vệ môi trường năm 2020, chuyển sang khái niệm nhãn sinh thái. Trong 2 năm 2024 - 2025, có 13 sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái.

Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho hay, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu khi thế giới cùng lúc đối mặt ba cuộc khủng hoảng môi trường lớn. Việt Nam đã có khung chính sách khá đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24, Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn đến Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam triển khai từ năm 2009.

Nhận thức tiêu dùng cũng thay đổi khi 86% người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường, 62% quyết định mua bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do và yêu cầu môi trường ngày càng khắt khe từ Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cùng với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng AI đang tạo sức ép và cơ hội cho quá trình chuyển đổi.

Tuy nhiên, kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn. Đến năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí nhãn xanh, trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024 - 2025 chỉ thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Người tiêu dùng trong nước vẫn quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm, trong khi rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính tiếp tục là trở ngại lớn.

Chính sách thuế, phí ưu tiên cho sản phẩm, dự án thân thiện môi trường

Ông Trịnh Quang Hưng - Trưởng phòng Thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường - (Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí - Bộ Tài chính) cũng cho biết thêm, chính sách thuế, phí, lệ phí liên quan đến môi trường luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện rõ trong các luật, nghị định và quy định cụ thể.

Liên quan trực tiếp đến nhãn sinh thái, Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 quy định túi nilon phải chịu thuế từ 10.000 - 50.000 đồng/kg. Theo Nghị định 67/2011/NĐ-CP, túi nilon thân thiện với môi trường không thuộc diện chịu thuế, trong khi các loại túi gây ô nhiễm sẽ bị áp mức thuế cao.

Ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường
Ảnh: TL minh họa

Về thuế thu nhập doanh nghiệp, chính sách hiện hành có nhiều ưu đãi đối với các ngành nghề, dự án bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp được miễn thuế với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải lần đầu, miễn thuế cho các cơ sở xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường, đồng thời được ưu đãi thuế với các dự án đầu tư sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, xử lý chất thải, sản phẩm tiết kiệm năng lượng hay các dự án thực hiện tại địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn.

Ngoài ra, các luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu và phí trước bạ cũng có cơ chế ưu tiên cho những loại nhiên liệu, phương tiện và sản phẩm thân thiện với môi trường.

PGS, TS. Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn Biến đổi khí hậu kiến nghị cần có những chính sách đặc thù, mang tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.

Để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, các chuyên gia cho rằng cần dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung. Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một "sân chơi" và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái".

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Võ Thái Sơn - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Stavian MP khẳng định, cần sự đồng lòng của toàn hệ thống - từ khâu sản xuất, phân phối cho đến người tiêu dùng. Chính sách và hướng dẫn cần rõ ràng, chi tiết hơn.

Bên cạnh đó, hỗ trợ vốn, tín dụng xanh và xúc tiến thương mại là những yếu tố rất cần thiết. Doanh nghiệp cần được tạo điều kiện tiếp cận các gói vay ưu đãi, quỹ phát triển xanh để đầu tư công nghệ sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng; đồng thời được hỗ trợ quảng bá sản phẩm xanh ở cả thị trường trong nước và quốc tế.

Người tiêu dùng cần hiểu vì sao sản phẩm xanh có giá cao hơn và lợi ích thực sự của chúng đối với sức khỏe, môi trường. Khi nhận thức thay đổi, nhu cầu sẽ tăng, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất nhiều hàng hoá hơn, hình thành vòng phát triển bền vững. Đặc biệt, cần triển khai việc hạn chế sản xuất, nhập khẩu và sử dụng sản phẩm nhựa, xốp dùng một lần trên toàn quốc cần được triển khai sớm để giảm ô nhiễm và khuyến khích lối sống xanh.

Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam nhấn mạnh, cần hoàn thiện thành lang pháp lí, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để họ tham gia sản xuất nhiều sản phẩm được gắn nhãn sinh thái hơn. Cùng với đó cần đẩy mạnh truyền thông để doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhất là người trẻ hiểu lợi ích của sản phẩm xanh sẽ giảm thiểu hoá chất độc hại đồng thời bảo vệ môi trường.