hàng miễn thuế ở sân bay

Tại tờ trình vừa được gửi tới Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đồng ý với chủ trương đề xuất trước đó của Bộ Giao thông vận tải về bán hàng miễn thuế trên các chuyến bay nhập cảnh.

Theo đó, cho phép các doanh nghiệp đang kinh doanh bán hàng miễn thuế tại sân bay quốc tế và bán hàng miễn thuế phục vụ khách xuất cảnh trên các chuyến bay quốc tế theo quy định tại Quyết đinh số 24/2009/QĐ-TTg, Quyết định số 44/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, và Thông tư số 148/2013/TT-BTC ngày 25/10/2013 của Bộ Tài chính được kinh doanh bán hàng miễn thuế trên các chuyến bay nhập cảnh.

Chính phủ giao Bộ Tài chính tổ chức triển khai hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện kinh doanh bán hàng miễn thuế cho khách nhập cảnh trên chuyến bay nhập cảnh, đảm bảo quản lý chặt chẽ và đáp ứng thuận lợi kinh doanh của doanh nghiệp.

Tăng thu ngoại tệ từ kinh doanh hàng miễn thuế

Theo phân tích của Bộ Tài chính, qua số liệu của 3 Cục Hải quan: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng có hoạt động kinh doanh bán hàng miễn thuế cho khách nhập cảnh từ ngày 15/9/2014 - 15/11/2014 cho thấy, mặt hàng và doanh thu của bán hàng miễn thuế cho khách nhập cảnh theo Quyết định số 44/2013/QĐ-TTg chủ yếu là rượu, thuốc lá. Số liệu cũng chứng tỏ khách nhập cảnh có nhu cầu mua hàng miễn thuế.

STT

Mặt hàng

Số lượng

Doanh thu (USD)

1

Thuôc lá (tút)

20.758

430.138,00

2

Rượu (chai)

48.873

2.854.091,00

3

Nước hoa (chai, lọ, hộp)

32.215

221.911,20

4

Mỹ phẩm (tuýp, thỏi..)

28.146

287.771,00

5

Bánh kẹo (sản phẩm)

10.790

124.206,00

Tông cộng

140.782

3.918.117,20

Việc thực hiện Quyết định 44/2013/QĐ-TTg của Thủ tưởng Chính phủ cho phép khách nhập cảnh được mua hàng miễn thuế và đa dạng đồng tiền thanh toán đã đáp ứng nhu cầu phục vụ cho khách nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách nhập cảnh được mua hàng miễn thuế làm quà biếu, tặng.

Đối với doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh này đã tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp (khoảng gần 4 triệu USD trong khoảng 1 năm triển khai bán hàng miễn thuế cho khách nhập cảnh), đa dạng các hình thức và phân khúc kinh doanh, tạo việc làm cho doanh nghiệp.

Như vậy, đề xuất cho phép bán hàng miễn thuế trên máy bay nhập cảnh sẽ tạo ra thuận lợi hơn cho cả doanh nghiệp kinh doanh và khách nhập cảnh mua hàng miễn thuế.

Hơn nữa, việc bán hàng miễn thuế trên máy bay là thông lệ quốc tế. Nhiều hãng hàng không của các quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai bán hàng miễn thuế trên máy bay phục vụ khách xuất cảnh, quá cảnh, trong đó có các chuyến bay đi và đến Việt Nam.

Như vậy theo Bộ Tài chính, về bản chất bán hàng miễn thuế trên máy bay quốc tế đến Việt Nam tương tự như bán hàng miễn thuế cho người xuất cảnh và quá cảnh trên các chuyến bay từ Việt Nam đi quốc tế.

Chính vì vậy, nếu không có quy định cho phép bán hàng miễn thuế trên máy bay nhập cảnh thì sẽ tạo ra bất bình đẳng trong kinh doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, đối với tiếp cận thị trường khách nhập cảnh Việt Nam, và không thu được nguồn ngoại tệ này từ việc kinh doanh này.

Đề nghị bổ sung quy định giám sát hải quan

Để triển khai công tác quản lý của Hải quan bán hàng miễn thuế cho khách nhập cảnh trên máy bay nhập cảnh Việt Nam, tại văn bản đề nghị của Bộ GTVT, Công ty cổ phần dịch vụ hàng không Sân bay Nội Bài (NASCO) cũng đã dự kiến quy trình quản lý và tổ chức bán hàng miễn thuế trên máy bay.

Theo đó, hàng miễn thuế sau khi xuất kho theo quy trình quản lý, được đựng vào xe chuyên dụng, cân trọng lượng, soi chiếu, kiểm tra, đối chiếu với phiếu xuất hàng, kẹp chì hải quan và dán tem nn ninh hàng không trước khi đưa vào máy bay và bàn giao cho đoàn tiếp viên theo quy trình, thủ tục và hồ sơ chi tiết.

Trong quá trình bán hàng trên máy bay, tiếp viên hàng không sẽ chịu trách nhiệm bán hàng cho khách theo đúng các quy định, quy chế về kinh doanh bán hàng miễn thuế, yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin, chỉ bán hàng đúng số lượng, giá trị quy định, thông báo cho người mua hàng về tiêu chuẩn miễn thuế đối với hàng hóa mua để nhập cảnh.

Trước thời điểm máy bay hạ cánh 30 phút, tiếp viên hàng không phải dừng việc bán hàng cho khách để đảm bảo thực hiện việc tổng hợp chứng từ, ghi chép sổ ghi thông tin khách hàng giao cho nhân viên của doanh nghiệp. Sau đó, nhân viên thống kê chịu trách nhiệm nhập dữ liệu liên quan đến việc bán hàng của chuyến bay theo quy định vào hệ thống phần mềm quản lý nối mạng với hải quan và thông báo cho bộ phận hải quan quản lý cửa khẩu nhập thuộc chi cục hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế đối với những trường hợp khách mua hàng vượt tiêu chuẩn định lượng miễn thuế (nếu có), theo Nghị định 66/2002/NĐ-CP ngày 1/7/2002 của Chính phủ để cơ quan hải quan thực hiện thu thuế theo quy định.

Ngoài ra, nếu điều kiện cơ sở kỹ thuật máy bay, an ninh hàng không cho phép cung cấp dịch vụ Internet trên các chuyến bay (dự kiến được triển khai trong thời gian tới) thì truyền dữ liệu bán hàng trong chuyến bay có thể được thực hiện ngay sau chuyến bay, hoặc liên tục trong suốt chuyến bay, đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý Hải quan.

Bộ Tài chính đề nghị cần được bổ sung quy định về giám sát hải quan và quản lý về số lượng hàng hoá miễn thuế đưa lên máy bay khi xuất cảnh và hàng bán ra, hàng còn tồn khi nhập cảnh. Thực tế, đa phần khách nhập cảnh tuân thủ các quy định về mua hàng miễn thuế nếu được thồng tin đầy đủ trước khi mua./.

Theo Bộ GTVT, các quy định hiện hành đang khiến DN bán hàng miễn thuế phục vụ khách nhập cảnh tại nhà ga sân bay gặp khó khăn do phải thu hẹp sản xuất kinh doanh.

Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, nhiều hãng hàng không của các quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai bán hàng miễn thuế trên máy bay phục vụ khách xuất cảnh, quá cảnh, trong đó các chuyến bay đi và đến Việt Nam.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng sức cạnh tranh tạo nguồn thu cho các hãng hàng không Việt Nam nói riêng và mang lại lợi ích cho quốc gia nói chung, đồng thời đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, Bộ GTVT đê nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép các doanh nghiệp hãng hàng không Việt Nam được bán hàng miễn thuế phục vụ hành khách nhập cảnh trên máy bay thực hiện các chuyến bay quốc tế của các hãng hàng không được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam.

N.P