Áp lực thuế carbon lên hàng hóa xuất khẩu

Từ ngày 1/1/2026, sau giai đoạn chuyển tiếp chỉ yêu cầu báo cáo (2023 - 2025), các doanh nghiệp nhập khẩu vào EU những mặt hàng thuộc CBAM sẽ phải mua chứng chỉ carbon tương ứng với lượng phát thải gắn với sản phẩm.

Về mặt pháp lý, nghĩa vụ tài chính này đặt lên phía nhà nhập khẩu EU, nhưng nhiều chuyên gia dự báo, chi phí sẽ được thương lượng và phân bổ lại dọc chuỗi cung ứng, trong đó một phần có thể bị đẩy sang phía nhà xuất khẩu.

Hiện CBAM áp dụng đối với các nhóm hàng phát thải cao như sắt–thép, xi măng, nhôm, phân bón, điện và hydrogen; bao gồm cả một số sản phẩm trung gian trong các ngành này.

Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn nhất của EU tại ASEAN và nằm trong nhóm các nước xuất khẩu hàng hóa lớn trên thế giới. Dù nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chưa chịu CBAM trực tiếp, song cơ chế này được thiết kế để từng bước mở rộng sang các sản phẩm có rủi ro rò rỉ carbon cao. Điều đó đồng nghĩa, nếu doanh nghiệp không sớm đáp ứng tiêu chuẩn phát thải và minh bạch số liệu, chi phí tuân thủ và rủi ro mất thị phần tại EU sẽ tăng đáng kể.

Thuế carbon và sức ép tái cấu trúc xanh với doanh nghiệp Việt
CBAM áp dụng đối với các nhóm hàng phát thải cao như sắt–thép, nhôm,...Ảnh minh hoạ.

Ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương cho rằng, chiến lược dài hạn của doanh nghiệp vẫn phải là nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu để duy trì uy tín, mở rộng thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh các yêu cầu nền tảng đó, chuyển đổi xanh đang trở thành điều kiện bắt buộc. Ông Hải lưu ý các doanh nghiệp, đặc biệt là những đơn vị tiêu tốn nhiều năng lượng, cần chủ động tích hợp mục tiêu giảm phát thải, trung hòa carbon và cải tiến quy trình sản xuất vào kế hoạch phát triển.

Trong khi nhiều ngành còn loay hoay, một số doanh nghiệp nông sản đã chủ động thích ứng từ sớm. Từ năm 2022, khi tín chỉ carbon mới chỉ ở mức khuyến khích, nhiều doanh nghiệp đã đo lường phát thải theo từng lô hàng và triển khai cơ chế bù trừ carbon.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Chủ tịch HĐQT Công ty Vina T&T cho biết, doanh nghiệp đã áp dụng đo phát thải, sử dụng năng lượng tái tạo và xây dựng bộ tiêu chuẩn nội bộ để kiểm soát lượng phát thải của từng lô hàng, từ đó tối ưu các biện pháp tiết giảm. Nhờ vậy, khi EU áp dụng CBAM cho mặt hàng rau quả, doanh nghiệp có thể đáp ứng ngay yêu cầu thị trường. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu bộ tiêu chuẩn đo - đếm thống nhất để chứng minh mức phát thải cho từng thị trường, nên nhu cầu xây dựng chuẩn quốc gia về trung hòa carbon là vô cùng cấp thiết.

Cùng với doanh nghiệp, nhiều hiệp hội ngành hàng cũng chủ động chuyển sang mô hình sản xuất bền vững. Theo Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, các vùng trồng đã hạn chế phân bón hóa học, thay bằng phân hữu cơ, duy trì hệ sinh thái tự nhiên và phát triển mô hình xen canh nhằm giảm phát thải, tiết kiệm nước và hướng tới canh tác xanh.

Bà Hoàng Thị Liên - Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam chia sẻ, thị trường EU đặc biệt yêu cầu kiểm soát chất lượng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Do đặc thù cây nông nghiệp dễ phát sinh sâu bệnh, việc dùng thuốc là cần thiết, nhưng kiểm soát liều lượng và tuân thủ quy định từng thị trường là yếu tố quyết định để sản phẩm đạt tiêu chuẩn và nâng giá trị gia tăng.

Cơ hội từ tín chỉ carbon và tài chính xanh

CBAM tạo ra một rào cản thương mại mới, nhưng mặt khác, cũng mở ra một thị trường kinh tế xanh trị giá hàng tỷ USD, trong đó các sáng kiến tài chính đóng vai trò then chốt hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi.

Nam A Bank đã xây dựng 3 trụ cột sản phẩm để hỗ trợ dòng vốn xanh gồm: tài trợ chuỗi cung ứng xanh, giao dịch tín chỉ carbon và giao dịch hàng hóa môi trường. Ngân hàng hướng tới phát triển sàn giao dịch tín chỉ carbon quốc gia, ứng dụng công nghệ vệ tinh và IoT để đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV), tạo chuẩn hóa minh bạch cho thị trường.

Ông Võ Hoàng Hải - Phó Tổng Giám đốc Nam A Bank đánh giá, Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển thị trường tín chỉ carbon, từ năng lượng tái tạo, nông nghiệp xanh đến trồng rừng. Nguồn thu từ giao dịch tín chỉ carbon không chỉ giúp doanh nghiệp tái đầu tư cho chuyển đổi xanh, mà còn đóng góp vào việc xây dựng một nền kinh tế phát thải thấp.

Ông Hải nhấn mạnh, nếu hình thành được các sàn giao dịch số gắn với sản phẩm xanh như gạo chất lượng cao sản xuất theo quy trình giảm phát thải hay các mặt hàng nông nghiệp đạt chuẩn bền vững, thì các sản phẩm này hoàn toàn có thể được “chuyển hóa” thành tín chỉ carbon để giao dịch. Đây sẽ là lực hút mạnh mẽ thu hút dòng vốn quốc tế và các nhà đầu tư tham gia thị trường vốn xanh của Việt Nam.

Thuế carbon và sức ép tái cấu trúc xanh với doanh nghiệp Việt
Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển thị trường tín chỉ carbon, từ năng lượng tái tạo, nông nghiệp xanh. Ảnh minh hoạ.

Ở góc độ phát triển công nghệ nông nghiệp, ông Manuel Madani - Giám đốc khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản và Hàn Quốc của PRIVA nhận định, chuyển đổi sang nông nghiệp bền vững thực chất là bước vào một lĩnh vực kinh doanh dựa trên tối ưu hóa tài nguyên và giảm phát thải. Cốt lõi của mô hình này là tiết kiệm nước, tiết kiệm năng lượng và giảm tối đa CO₂ so với canh tác truyền thống.

Ông Madani nhấn mạnh, Việt Nam đang có những bước tiến đáng kể và trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong việc đón nhận đổi mới, sẵn sàng thử nghiệm và chấp nhận rủi ro - yếu tố quan trọng để thúc đẩy năng lực cạnh tranh xanh.

CBAM đang trở thành cú huých thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi mô hình sản xuất, đầu tư vào công nghệ sạch và minh bạch hóa chuỗi cung ứng. Chi phí ban đầu có thể tăng, nhưng giá trị dài hạn là mở rộng thị trường, nâng tầm thương hiệu và tiếp cận hiệu quả hơn với dòng vốn xanh.