Các địa phương cần tiếp tục ưu tiên phân bổ chi ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp. Ảnh: Tư Bùi
Do đó, trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần thực hiện rà soát lại các chính sách trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; đồng thời, sớm trình Chính phủ ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật và khung giá dịch vụ dạy nghề theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí và có tích lũy.
Ngân sách chi hơn 229 nghìn tỷ đồng cho giáo dục đào tạo và dạy nghề năm 2018
Theo số liệu của Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (HCSN), Bộ Tài chính, chi NSNN cho lĩnh vực giáo dục đào tạo và dạy nghề đảm bảo tăng đều qua các năm: Năm 2015 là 184.070 tỷ đồng, năm 2016 là 195.604 tỷ đồng, năm 2017 là 215.167 tỷ đồng, năm 2018 là 229.074 tỷ đồng. Như vậy, nếu so sánh mức tăng năm 2018 với năm 2015 thì số tăng gấp 1,24 lần. Mức kinh phí này đã góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu đổi mới và phát triển giáo dục nghề nghiệp.
Về cơ cấu chi, ngân sách đã ưu tiên bố trí kinh phí cho giáo dục dạy nghề ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới hải đảo và vùng đồng bào dân tộc. Theo Quyết định số 46/2016/QĐ-TTg, định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và dạy nghề được điều chỉnh tăng bình quân 1,76 lần tùy theo từng vùng so với Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg; định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và dạy nghề theo tiêu chí dân số cho vùng miền núi - đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu cao hơn 1,56 lần so với vùng đô thị; đối với vùng cao - hải đảo cao hơn 2,22 lần so với vùng đô thị.
Ngoài ra, quyết định này cũng quy định mức phân bổ đối với những địa phương khó khăn hoặc dân số thấp được phân bổ thêm, cụ thể như các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long được phân bổ thêm 9%, các địa phương có dân số dưới 400.000 người được phân bổ thêm 16%.
Theo bà Trần Thị Phương Linh - Phó Trưởng phòng Sự nghiệp y tế xã hội, Vụ HCSN, qua công tác kiểm tra và phản ánh của một số địa phương, mặc dù hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp khá lớn, nhưng trong những năm gần đây, công tác tuyển sinh của một số trường gặp nhiều khó khăn. Trước tình trạng thiếu người học, một số máy móc thiết bị phục vụ đào tạo tại một số trường nghề phải giãn hoặc ngừng hoạt động, một số máy móc có giá trị trong tình trạng hỏng hóc, không sử dụng được; nhiều cơ sở đào tạo hoạt động cầm chừng hoặc đứng trước nguy cơ ngừng hoạt động.
Cùng với đó, kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn không đồng đều giữa các vùng trong cả nước, các vùng trung du và miền núi phía bắc, Tây Nguyên có số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề và tỷ lệ lao động có việc làm sau học nghề thấp hơn các vùng khác, trong khi kinh phí trung ương hỗ trợ bình quân luôn bằng hoặc cao hơn mức hỗ trợ bình quân chung của các vùng khác trong cả nước.
Cần sớm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật
Cũng theo bà Linh, hiện nay, nhiều địa phương chưa ban hành tiêu chuẩn, định mức sử dụng trang thiết bị trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp dẫn đến vướng mắc trong việc quản lý, sử dụng kinh phí NSNN hỗ trợ mua sắm trang thiết bị dạy nghề.
Ngoài ra, quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa được cấp có thẩm quyền ban hành. Do đó việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo nghề ban đầu còn dàn trải, thiếu đồng bộ, chưa gắn với cơ cấu, quy hoạch ngành nghề.
Đáng lưu ý, hiện nay nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp chưa được ban hành gây khó khăn trong việc đổi mới hoạt động của các đơn vị này. Bên cạnh đó, mức thu học phí đã tăng dần qua các năm nhưng vẫn chưa đủ bù đắp chi thường xuyên và chi đầu tư.
Bà Linh kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện rà soát lại các chính sách trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp trước và sau khi Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp.
Đồng thời, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ trong lĩnh vực dạy nghề; định mức kinh tế - kỹ thuật và khung giá dịch vụ dạy nghề theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí và có tích lũy.
Đối với địa phương, cần tiếp tục ưu tiên phân bố chi ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp trong tổng chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Đồng thời, các địa phương cần ban hành các văn bản có liên quan trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp theo nhiệm vụ được giao tại các luật, nghị định, quyết định và thông tư của các bộ quản lý chuyên ngành, tạo hành lang pháp lý để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai thực hiện./.
Tư Bùi