PV: Thưa ông, Quyết định số 3761/QĐ-BTC của Bộ Tài chính đặt mục tiêu triển khai các sản phẩm mới nhằm đáp ứng tiêu chí nâng hạng thị trường. Ông đánh giá thế nào về vai trò của trái phiếu hạ tầng và trái phiếu xanh trong việc cải thiện cấu trúc thị trường và chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế?
Ông Phùng Xuân Minh: Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cần gần 300 tỷ USD để đầu tư hạ tầng trên nhiều lĩnh vực đến năm 2030, trong đó nhu cầu vốn cho chuyển đổi xanh theo Nghị quyết số 70/NQ-TW chiếm tỷ trọng lớn. Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) cũng ước tính, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2040.
![]() |
| Ông Phùng Xuân Minh |
Trong bối cảnh tín dụng xanh mới chiếm dưới 5% tổng dư nợ và thị trường trái phiếu khí hậu còn sơ khai, việc bổ sung trái phiếu hạ tầng và trái phiếu xanh vào Danh mục triển khai theo Quyết định số 3761/QĐ-BTC là bước đi rất kịp thời. Các sản phẩm này giúp định hình lại cấu trúc thị trường và thúc đẩy chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế thông qua yêu cầu minh bạch, tiêu chuẩn báo cáo và khuôn khổ quản trị chặt chẽ.
Một vấn đề quan trọng là cấu trúc kỳ hạn. Nhà đầu tư quốc tế thường coi dài hạn là từ 10 - 15 năm, nhất là với các dự án hạ tầng có tổng mức đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn dài. Trong khi đó, phần lớn trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ có kỳ hạn 2 - 3 năm, chưa đáp ứng nhu cầu vốn ổn định cho các dự án trọng điểm. Khi được thiết kế theo chuẩn quốc tế và niêm yết tập trung, trái phiếu hạ tầng và trái phiếu xanh sẽ góp phần kéo dài đường cong lợi suất, tăng chiều sâu cho thị trường vốn và tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư dài hạn.
Việc phát triển hai dòng sản phẩm này còn giúp mở rộng tệp nhà đầu tư tổ chức như quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ hạ tầng và các quỹ ESG quốc tế, vốn ưu tiên các công cụ gắn với chuyển đổi xanh. Sự tham gia của nhóm này không chỉ gia tăng thanh khoản, mà còn nâng điểm trong đánh giá của FTSE Russell và MSCI - hai tổ chức đang theo sát mức độ cải thiện cấu trúc và tính minh bạch của thị trường Việt Nam.
Đồng thời, các chuẩn mực của ICMA hay tiêu chuẩn ASEAN yêu cầu báo cáo định kỳ về sử dụng vốn và tác động môi trường - xã hội, qua đó củng cố tính minh bạch và mức độ chuyên nghiệp của toàn thị trường. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam duy trì vị thế Frontier Emerging (cận biên) và hướng tới mục tiêu tham gia nhóm MSCI Emerging (thị trường mới nổi) trước năm 2030.
PV: Theo ông, các thị trường mới nổi thành công như Malaysia hay Indonesia đã triển khai những mô hình nào mà Việt Nam có thể tham khảo?
Ông Phùng Xuân Minh: Hai trường hợp nổi bật nhất có thể tham khảo là mô hình SRI Sukuk của Malaysia và khuôn khổ trái phiếu bền vững của Indonesia. Tại Malaysia, SRI Sukuk là cơ chế phát hành trái phiếu sukuk hướng tới các dự án thân thiện môi trường và xã hội, kết hợp nguyên tắc tài chính gắn với mục tiêu về ESG.
![]() |
| Ảnh: Đức Thanh. |
Mô hình này tài trợ cho các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, hạ tầng xanh hay xử lý nước và được hỗ trợ bởi chính sách chi trả tới 90% chi phí thuê đơn vị đánh giá độc lập. Điều này giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đồng thời nâng mức minh bạch, giúp Malaysia trở thành một trong những thị trường dẫn đầu toàn cầu về sukuk xanh.
Indonesia lại xây dựng khuôn khổ trái phiếu và chứng khoán bền vững gắn chặt với hệ thống phân loại xanh có cấu trúc phân cấp rõ ràng nhằm hạn chế “tẩy xanh”. Bên cạnh khuôn khổ nội địa, Indonesia còn phát hành trái phiếu xanh trên thị trường quốc tế và nhanh chóng trở thành nhà phát hành lớn trong khu vực, thu hút dòng vốn từ các quỹ đầu tư của các nền kinh tế phát triển. Hai kinh nghiệm này cho thấy tầm quan trọng của khung pháp lý rõ ràng, các tổ chức dẫn dắt thị trường và cơ chế ưu đãi đủ mạnh để thúc đẩy doanh nghiệp tuân thủ chuẩn mực xanh.
PV: Vậy theo ông, đâu là cơ hội và khó khăn lớn nhất với thị trường trái phiếu hạ tầng, trái phiếu xanh Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030?
Ông Phùng Xuân Minh: Cơ hội lớn nhất nằm ở khả năng gắn mục tiêu nâng hạng thị trường với nhu cầu vốn trung - dài hạn rất lớn cho hạ tầng và chuyển dịch xanh. Nếu được thiết kế chuẩn mực, các sản phẩm này có thể trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư tổ chức, thu hút thêm hàng tỷ USD vốn thụ động và chủ động sau khi Việt Nam được FTSE Russell nâng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi thứ cấp với điều kiện cải cách phải liên tục và rủi ro thị trường trái phiếu được kiểm soát tốt.
Khó khăn lớn nhất là tốc độ phát triển quy mô có thể vượt khả năng quản trị rủi ro. Mở rộng nhanh trái phiếu hạ tầng và trái phiếu xanh đòi hỏi năng lực chuẩn bị dự án, thẩm định, quản trị và giám sát sử dụng vốn tương xứng. Nếu không, những vấn đề từng xảy ra với trái phiếu doanh nghiệp như sai mục đích sử dụng vốn, dự án chậm tiến độ hay dòng tiền kém bền vững có thể lặp lại. Rủi ro “tẩy xanh” cũng đáng lo ngại khi dự án không đáp ứng tiêu chí xanh nhưng vẫn được gắn nhãn, gây xói mòn niềm tin nhà đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu nâng hạng.
Trong bối cảnh này, vai trò của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đặc biệt quan trọng. Họ cung cấp đánh giá khách quan về rủi ro tín dụng, phân tích độc lập về cấu trúc và cơ chế bảo lãnh dự án, đồng thời phối hợp với các đơn vị đánh giá ESG để nâng cao mức minh bạch và chất lượng thị trường.
PV: Xin cảm ơn ông!



