Khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn khi mua hàng hóa
Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng, đối tượng sử dụng hóa đơn điện tử, trong đó bổ sung quy định rõ trách nhiệm của người nộp thuế, người mua, tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn, cơ quan thuế trong việc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử.
Đáng chú ý, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về chương trình khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ và khen thưởng người tiêu dùng tố giác cơ sở kinh doanh không lập và giao hóa đơn điện tử. Kinh phí cho chương trình này lấy từ nguồn kinh phí được ngân sách nhà nước đảm bảo hàng năm bằng 0,1% trên tổng số thu thuế giá trị gia tăng nội địa của năm trước.
![]() |
| Việc quản lý thuế sẽ hiệu quả hơn nếu mỗi người dân khi mua hàng đều lấy hóa đơn. Ảnh: Đức Thanh |
Thông tin liên quan đến công tác khuyến khích sử dụng hóa đơn điện tử, trong đó có hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, Bộ Tài chính cho biết, từ năm 2022, Bộ đã giao cơ quan thuế phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các chương trình hóa đơn may mắn từ nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên của ngành Thuế.
Theo đó, mức kinh phí đã triển khai trong giai đoạn 2022 - 2024 là trên 33 tỷ đồng (bình quân 11 tỷ đồng/năm), dự toán năm 2025 là 12,12 tỷ đồng từ nguồn kinh phí tuyên truyền hỗ trợ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính, qua thực tế triển khai, do hạn chế về kinh phí, dẫn đến cơ cấu giải thưởng và số tiền cho mỗi giải không cao (thấp nhất là 500.000 đồng/giải, cao nhất là 50 triệu đồng/giải), kỳ quay thưởng chưa thường xuyên (theo quý), việc tổ chức phân tán tại từng tỉnh, thành phố, nên mặc dù được dư luận đánh giá tốt, song vẫn chưa thu hút, hấp dẫn, lan tỏa thói quen lấy hóa đơn của người tiêu dùng để tham gia chương trình.
Đầu tư nguồn lực tương xứng, đảm bảo dữ liệu được bảo mật
Bên cạnh việc bổ sung quy định về hóa đơn, dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã bổ sung 1 chương quy định về quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ, ứng dụng công nghệ, dữ liệu và chuyển đổi số trong quản lý thuế.
Cụ thể, Điều 35 quy định về hệ thống thông tin quản lý thuế. Theo đó, hệ thống thông tin quản lý thuế xử lý tập trung, tích hợp; cung cấp các dịch vụ công trực tuyến toàn trình, dịch vụ số cho người nộp thuế; đảm bảo thu thập, xử lý, lưu trữ, cập nhật và quản lý thông tin, dữ liệu chính xác, đầy đủ, kịp thời. Toàn bộ quá trình này được ghi nhận, lưu lịch sử trên hệ thống.
| Đảm bảo khi luật được ban hành sẽ "thấm" vào cuộc sống “Luật Quản lý thuế là đạo luật tác động sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế. Việc xây dựng luật không chỉ là câu chuyện của cơ quan thuế, mà là vấn đề của cả nền kinh tế. Vì vậy, các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia cần đóng góp ý kiến một cách thực chất, thẳng thắn và xây dựng. Đó là cách để đảm bảo rằng khi luật được ban hành, sẽ thực sự "thấm" vào cuộc sống, dễ hiểu, dễ thực hiện và tạo động lực mới cho phát triển kinh tế đất nước”. Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký VCCI |
Cơ sở dữ liệu về thuế được xây dựng, phát triển và vận hành trên nền tảng dữ liệu số, kết nối và đồng bộ với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, các tổ chức hợp tác quốc tế và tổ chức có liên quan. Cơ quan quản lý thuế được quyền thu thập, tiếp cận, sử dụng và mua sắm các cơ sở dữ liệu thương mại có sẵn trên thị trường.
Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ kết nối, trao đổi thông tin, chia sẻ dữ liệu với các bên liên quan theo quy định của pháp luật. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và các đơn vị liên quan có trách nhiệm xây dựng, triển khai hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu kết nối, trao đổi thông tin thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia theo quy định và đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, kịp thời của dữ liệu cung cấp.
Cơ quan quản lý thuế sử dụng hệ thống thông tin quản lý thuế để ban hành các văn bản, thông báo, quyết định hành chính thuế tự động trên cơ sở quy trình nghiệp vụ, các tiêu chí quản lý và dữ liệu trên hệ thống. Các văn bản, thông báo, quyết định hành chính thuế tự động được ký bằng chữ ký số của cơ quan quản lý thuế và có giá trị pháp lý như văn bản giấy. Quá trình xử lý được ghi nhận, lưu lịch sử trên hệ thống thông tin quản lý thuế và cho phép người nộp thuế tra cứu hoặc yêu cầu làm rõ các thông tin liên quan.
Đối với vấn đề bảo đảm an toàn thông tin và quản lý rủi ro công nghệ, Điều 36 dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đưa ra quy định, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, các đơn vị có liên quan và cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm: bảo đảm an toàn, an ninh mạng và bảo mật thông tin người nộp thuế trong toàn bộ quá trình xây dựng, triển khai, vận hành hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý thuế; thực hiện quản lý rủi ro công nghệ trong công tác quản lý thuế; đảm bảo đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của người nộp thuế trong trường hợp xảy ra sự cố công nghệ, không làm gián đoạn việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
Trường hợp phát sinh sự cố kỹ thuật của hệ thống thông tin quản lý thuế khi người nộp thuế thực hiện giao dịch điện tử dẫn đến người nộp thuế không thể thực hiện được nghĩa vụ thuế theo đúng thời hạn quy định, thì người nộp thuế không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, không tính tiền chậm nộp thuế và không tính vào thời gian giải quyết hồ sơ thuế của cơ quan thuế trong thời gian xảy ra sự cố.
Góp ý để hoàn thiện dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá cao việc mở rộng ứng dụng công nghệ, dữ liệu lớn và chuyển đổi số trong quản lý thuế đưa ra tại Chương V dự thảo Luật.
Ông Tuấn cho rằng, việc xây dựng hệ sinh thái thuế điện tử, dịch vụ số, kết nối liên thông dữ liệu giữa các bộ, ngành là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, ông Tuấn đề nghị Bộ Tài chính xây dựng lộ trình triển khai có tính khả thi, đầu tư nguồn lực tương xứng, đảm bảo dữ liệu được bảo mật, an toàn và không bị lạm dụng.
Bên cạnh đó, ông Tuấn cũng đánh giá cao về những nỗ lực cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình trong dự thảo Luật. Phó Tổng Thư ký VCCI đề nghị tiếp tục rà soát, chuẩn hóa biểu mẫu, tăng cường dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các quy định mới khi ban hành phải áp dụng được ngay trong thực tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.



