Chuẩn bị từ sớm, từ xa cho “Quốc hội số”
Trong 80 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam luôn tự đổi mới để phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử. Sau Đổi mới 1986, Quốc hội thông qua nhiều quyết sách then chốt để khai thông nguồn lực. Đến đầu thế kỷ XXI, yêu cầu đổi mới lại đến từ chính sự bùng nổ của công nghệ số.
Quốc hội khóa XV đã khởi động những bước đi đầu tiên khi tổ chức họp trực tuyến trong đại dịch Covid-19, triển khai hệ thống biểu quyết điện tử, số hóa hồ sơ phục vụ đại biểu. Đó là nền tảng cho lộ trình từ “Quốc hội điện tử” đến “Quốc hội số” - một nghị viện hiện đại, minh bạch, gần dân hơn bao giờ hết.
![]() |
| Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bấm nút khai trương Nền tảng “Bình dân học vụ số - Quốc hội số”. Ảnh tư liệu |
Thực tế, Quốc hội số không phải là xu hướng gần đây mới bắt đầu. Ngay từ đầu những năm 2010, Quốc hội đã đặt nền móng số hóa hoạt động nghị trường, trước khi khái niệm chuyển đổi số trở thành xu thế phổ biến.
Từ hệ thống biểu quyết điện tử, kỳ họp “không giấy”, ứng dụng iPad cho đại biểu, hội nghị truyền hình trực tuyến… đến thư viện số, cổng thông tin điện tử, kho dữ liệu hồ sơ đại biểu, tất cả đã từng bước hình thành trong hơn một thập kỷ qua.
Sau đó, các phiên họp trực tuyến và kết hợp của Quốc hội khóa XV, đặc biệt trong giai đoạn dịch Covid-19 đã chứng minh năng lực làm việc của một “nghị viện số”. Hệ thống biểu quyết điện tử hoạt động suôn sẻ ở cả hai hình thức: trực tiếp và từ xa. Việc thực hiện “kỳ họp không giấy” đã tiết kiệm rất nhiều chi phí, thời gian và công sức, tăng tính bảo mật, đồng thời thay đổi hoàn toàn thói quen làm việc của đại biểu và bộ máy giúp việc.
Để đạt được những kết quả này, quá trình “bình dân học vụ số” đã được triển khai đến từng cán bộ, công chức, từng cơ quan của Quốc hội. Bên cạnh việc đầu tư hạ tầng hiện đại, các đại biểu Quốc hội, công chức và chuyên viên được đào tạo về kỹ năng số, sử dụng hệ thống quản lý văn bản, phần mềm họp, ứng dụng tra cứu dữ liệu, chữ ký số và bảo mật thông tin. Chính những “viên gạch” nhỏ này đã tạo nền tảng vững chắc để Quốc hội bước vào chuyển đổi số với tâm thế chủ động, có chuẩn bị và có tầm nhìn.
Từ ứng dụng công nghệ thông tin đến chuyển đổi số toàn diện
Với sự chuẩn bị, đón đầu như vậy, nên khi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ban hành, Quốc hội đã có thể triển khai nhanh chóng. Trên cơ sở Nghị quyết 57, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1343/NQ-UBTVQH15 về xây dựng và phát triển Quốc hội số giai đoạn 2024 - 2026, định hướng đến 2030.
Văn bản này đánh dấu bước chuyển từ việc “ứng dụng công nghệ thông tin” sang “chuyển đổi số toàn diện”, với 4 trụ cột chiến lược: Hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách; Phát triển hạ tầng kỹ thuật số và dữ liệu số; Xây dựng nguồn nhân lực số; Đảm bảo an toàn, an ninh thông tin.
| Triển khai nhanh chóng và hiệu quả công tác chuyển đổi số Phát biểu tại Hội nghị chuyên đề “Bình dân học vụ số - Quốc hội số: Khung kiến thức, kỹ năng số cho Quốc hội hiện đại” ngày 13/9/2025, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm nhiệt liệt biểu dương Đảng ủy và lãnh đạo Quốc hội đã chỉ đạo triển khai phong trào “Bình dân học vụ số - Quốc hội số” một cách bài bản, khoa học, hiệu quả và sát với nhu cầu thực tiễn của từng đơn vị. Đồng thời, Tổng Bí thư đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương nghiên cứu, học tập mô hình này. Nhân dịp này, Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã bấm nút khai trương Nền tảng “Bình dân học vụ số - Quốc hội số” và chứng kiến lãnh đạo các đơn vị thuộc hệ thống Quốc hội ký cam kết triển khai phong trào “Bình dân học vụ số - Quốc hội số”, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ Trung ương đến cơ sở, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ, triển khai nhanh chóng và hiệu quả công tác chuyển đổi số trong toàn hệ thống Quốc hội. |
Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số của Quốc hội được thành lập, trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ, số hóa hồ sơ văn bản, tích hợp cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động của đại biểu và các cơ quan của Quốc hội. Mục tiêu đặt ra đến năm 2026 là 100% đại biểu Quốc hội và cán bộ, công chức được trang bị chữ ký số; 100% quy trình, nghiệp vụ chính được vận hành trên môi trường số.
Chuyển đổi số không chỉ là chuyện công nghệ, mà còn là câu chuyện dân chủ. Nhờ công nghệ, cử tri có thể theo dõi trực tiếp toàn bộ diễn biến nghị trường, biết rõ các lá phiếu của đại biểu, gửi ý kiến trực tuyến mà không cần chờ buổi tiếp xúc trực tiếp.
Quốc hội số cũng giúp nâng cao chất lượng giám sát. Thay vì phụ thuộc vào báo cáo giấy, đại biểu có thể khai thác cơ sở dữ liệu điện tử, phân tích bằng trí tuệ nhân tạo để chất vấn sắc bén hơn, phản biện thực chất hơn. Từ đó, Quốc hội gần dân hơn, minh bạch hơn, trách nhiệm hơn.
Quốc hội số sẽ không chỉ ứng dụng công nghệ để tiện lợi hơn, mà còn đổi mới phương pháp làm luật và giám sát dựa trên bằng chứng, dữ liệu và kết quả thực tế. Theo Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, “trí tuệ nhân tạo sẽ trở thành trợ thủ đắc lực giúp Quốc hội xem xét, đưa ra những quyết sách chính xác hơn, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu quả giám sát và kết nối tốt hơn với cử tri và nhân dân”.
Như vậy, Quốc hội số không chỉ là câu chuyện nội bộ của nghị trường. Đây là một phần trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại và số hóa toàn diện.
Số hóa mạch nguồn dân chủ
Từ nghị trường đơn sơ năm 1946 đến nghị trường trực tuyến hôm nay, tinh thần “vì dân” vẫn là cốt lõi. Quốc hội số chính là phương thức mới để thực thi tinh thần dân chủ bằng công cụ của thời đại.
Như Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhiều lần khẳng định, “phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là yếu tố then chốt, tất yếu để xây dựng Quốc hội hiện đại, dân chủ, minh bạch, chuyên nghiệp, khoa học và hiệu quả”. Các nền tảng số giúp cử tri theo dõi, kiến nghị nhanh hơn; giúp đại biểu nắm bắt ý kiến xã hội, xử lý thông tin và lập luận dựa trên dữ liệu; giúp báo chí và công luận tiếp cận nghị trường minh bạch và kịp thời hơn.
Với tầm nhìn “đi trước một bước về thể chế”, cùng nền tảng đã được chuẩn bị kỹ lưỡng qua nhiều năm, Quốc hội Việt Nam đang khẳng định vị thế là nghị viện tiên phong của thời đại số, nơi mà mỗi dữ liệu, mỗi quyết sách đều hướng tới một giá trị chung “vì nhân dân, do nhân dân và phục vụ nhân dân” bằng phương thức hiện đại nhất.



